10 Điều Tâm Niệm Khi Giải Đoán Số Tử Vi
LÊ TRUNG HƯNG
Đọc bài của giáo sư Lê Trung Hưng viết về các bí quyết để đoán về cung Mạng của lá số Tử Vi, quý bạn từng theo dõi KHHB chắc thấy rằng giáo sư Hưng thuộc lò Thiên Lương. Giáo sư Hưng có thể được kể là môn đồ sáng giá nhất của cụ Thiên Lương.
Chúng tôi đương soạn bài tóm tắt lại các kinh nghiệm Tử Vi đã được nêu lên trong năm ngoái trên giai phẩm KHHB thì vừa được bài này, xin đem cống hiến quý bạn đọc. Bài này đã nói trước một số kinh nghiệm mà chúng tôi sẽ khai triển.
I - Tử Vi dưới nhãn quan Huyền Cơ đạo thuật
Khoa học Tử Vi theo truyền thuyết thì phát sinh từ đời nhà Tống (Trung Hoa) và do Trần Đoàn hiền triết phát huy thành hệ thống lý học, để rồi sau đó được các thế hệ nối tiếp vừa đóng góp nghiên cứu, vừa quảng bá nhân gian như một khuynh hướng tiên tri các hoạt động của mỗi con người. Xã hội Á Đông xưa trọng kẻ sĩ hơn hết thảy:
- Dân hữu tử, sĩ vi chi tiên
Mẫu người đại nhân phải hội đủ các yếu tố hơn đời và hơn người qua sự tinh thông nho, y, lý số. Trong khi đại đa số quần chúng lo sinh nhai bằng cách sinh hoạt trên căn bản nông nghiệp, thì giới sĩ phu miệt mài bằng các suy tư nhân linh của đạo học Đông Phương, lấy tĩnh trạng làm căn bản biện chứng cho các động trạng. Hai chiều hướng trái ngược:
- Đa số: Động trạng - Tĩnh trạng
- Thiểu số: Tĩnh trạng - Động trạng
Làm cho khoa lý học Tử Vi trở thành huyền học và tệ hơn nữa là thành đạo thuật mưu sinh của những "bậc đại nhân nửa chừng xuân" vì tham vọng ch cá nhân. Nhãn quan chung của nhân gian, xưa đến nay một phần bị mê hoặc bởi các thuật sĩ, một phần chịu ảnh hưởng triết lý nhị nguyên của Tây Phương (qua cố gắng nhiệt thành của các quan Tây Phương cai trị thờ Pháp thuộc), nhìn môn Tử Vi như một kiến thức của óc mê tín, chỉ một vài năm gần đây, giới trí thức mới đang kiếm các phục hồi cho khoa Tử Vi bằng những nỗ lực của luận lý, là đem kỹ thuật của Tây Phương giải thích sáng tỏ một phần góc cạnh "ảo bí" của khoa học nhân văn này. Trong tình thần mới ấy, khoa Tử Vi không thể chỉ nghiên cứu bằng những mẩu chuyện truyền khẩu, bằng những câu phú thực nghiệm trải qua thời gian đã bị tam sao thất bản: mà phải vận dụng tinh thần tinh tế của lý học hiện đại đồng thời vẫn lấy căn bản "dịch lý" của Đông Phương làm nền tảng phán đoán. Nếu ai cũng biết cái tinh hoa của quan niệm "ý tại ngôn ngoại" của "lời vô ngôn" đẻ ra cung cách của Thuật Zen (Thiền) thì cái tinh túy mềm dẻo và thích nghi của Yoga càng phải nên áp dụng vào khoa Tử Vi để linh động biện chứng những tương quan của các dữ kiện (tạm gọi là sao trên lá số Tử Vi) chi phối đời người.
II - Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử Vi
Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo dõi các dữ kiện "sao" sau đây:
1- Dữ kiện nghị lực: Sao Thiên Mã
2- Dữ kiện sinh tồn: các sao vòng Tràng Sinh
3- Dữ kiện hưng thịnh: các sao vòng Lộc Tồn
4- Dữ kiện tính khí: các sao vòng Thái Tuế
5- Dữ kiện thời vận: các sao Tuần và Triệt
6- Dữ kiện bẩm chất: các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan
7- Dữ kiện hoạt động: các sao vòng Mệnh và vòng Thân
8- Dữ kiện thú tính: các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh
9- Dữ kiện phù trợ: các sao Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hòa Quyền, Hóa Khoa
10- Dữ kiện ma thuật: Mệnh Vô Chính Diệu
Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý:
a- Tương sinh: Mộc - Hỏa - Thổ - Kim - Thủy - Mộc
b- Tương khắc: Mộc - Thổ - Thủy - Hỏa - Kim - Mộc
c- Bình hòa: Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d- Bất cập: Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e- Thái quá: Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f- Phát triển: Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.
Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng). Do đó, chủ ý của bài viết là nhằm cải biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.
III - Sao Thiên Mã
Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là "sao Thiên Mã" chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung: Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau:
a- Thiên Mã ở cung Dần: đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ. làm lợi người mạng Hỏa.
b- Thiên Mã ở cung Tỵ: đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.
c- Thiên Mã ở cung Thân: đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.
d- Thiên Mã ở cung Hợi: đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.
IV - Vòng Tràng Sinh
Vòng Tràng Sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phúc Đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh khỏe hay đau yếu:
a- Đối với sao Tràng Sinh (là Thủy). Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ: Người hành Mộc, Mệnh an tại Dậu (tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các sao Trường Sinh là Thủy (Kim - Thủy) sao Trường Sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mẹnh khắc sao, sao khắc bản Mệnh: chết non.
b- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của "Thai" hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, cung Tài có Đế Vượng (ngu si hưởng thái bình).
c- Đối với sao Đế Vượng (Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật Ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng Sinh thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời).
V - Vòng Lộc Tồn:
Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bàn số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung: Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất:
a- Tuổi Giáp: Lộc Tồn ở Dần.
b- Tuổi Ất: Lộc Tồn ở Mão
c- Tuổi Canh: Lộc Tồn ở Thân
d- Tuổi Tân: Lộc Tồn ở Dậu
Cho nên, những người sinh năm Dần - Ngọ - Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc Tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi, Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý, Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc Tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi).
VI - Vòng Thái Tuế
Có lẽ đây là vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa Tử Vi lý học. Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời. Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là:
- Dần Ngọ Tuất: Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu: Hành Kim
- Hợi Mão Mùi: Hành Mộc
- Thân Tý Thìn: Hành Thủy
Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau:
a- Nhóm chánh phái: Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ
b- Nhóm tả phái: Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn
c- Nhóm thiên hữu: Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù
d- Nhóm thiên tả: Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức
Cung an Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính của đương số ngay, ví dụ như:
- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.
- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể
- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn, Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão, Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.
Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế - Quan Phù - Bạch Hổ đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số Tử Vi. Khi cung Mệnh của bản số Tử Vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.
VII - Luật của sao TUẦN & TRIỆT
Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, sao Triệt được coi như cái phanh đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ phanh sau của xe. Phanh đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm, làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (phanh của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải Tuần - Triệt được đặc biệt cho những ai có bản số Tử Vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.
Thí dụ: Mệnh đóng tại Tý có sao Triệt, cung Phúc Đức có sao Tuần, vậy đi đến giai đoạn cung Phúc Đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế - Quan Phù - Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vì khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ phanh thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.
VIII - Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan
Người biết coi Tử Vi, ai cũng biết: Thiên Không (hành Hỏa), Đào Hoa (hành Mộc) và Hồng Loan (hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh); cho nên khi ba cung Mệnh, Tài, Quan của bản số Tử Vi có:
a- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng Hỏa, để Hỏa tài phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đoạt, muốn lấn tới để ăn người.
b- Thiên Không, Hồng Loan: nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay quy hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.
c- Thiên Không độc thủ (ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có Hồng Đào chiếu): bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng; tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngoài.
IX - Vòng Mệnh và Vòng Thân
Căn cứ vào Luật Tam hạp:
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa
- Thân Tý Thìn là Thủy
- Hợi Mão Mùi là Mộc
- Tỵ Dậu Sửu là Kim
Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu - trưởng, ta vạch trần được tác phong đương số một cách dễ dàng.
Ví dụ: Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ - Dậu - Sửu: Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần - Ngọ - Tuất: Hỏa), cung an Thân ở Tý (vòng hành động là Thân - Tý - Thìn: Thủy). Ta lý giải ngay: số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy).
X - Nhóm hung tinh chiến lược
Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Đà La, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.
a- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế - Quan Phù - Bạch Hổ thì dù đắc địa (Tỵ Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí: nên vẫy vùng yếu kém hẳn.
b- Hai sao Đà La ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và Kình Dương đóng ở Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) lại có vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ "hồi chánh tinh" đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.
c- Hai sao Hỏa Tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa - Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù "khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: đấy là cách của người "sih thọ tử bất ninh thọ nhục".
XI - Bộ sao phò trợ
Quan niệm "phù thịnh không phù suy" là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ: Tả Phù - Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền...Nếu các vòng sao này lọt vào trong vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái) thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử Vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.
XII - Mệnh Vô Chính Diệu: cách số của ma thuật
Nói chung những người có cung Mệnh Vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử Vi những người Mệnh Vô chính diệu rất khó, vì độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú...khó phân biệt sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).
XIII - TỔNG LUẬN
Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử Vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn.
Khoa lý học này sẽ có một ngày cởi bỏ cái "ảo bí" của nó, để trở thành một khoa nhân văn chưa đựng tính thiện ác và thái độ vô cầu của người thâm cứu.
Nguồn: KHHB - Số 74
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)
Bài viết liên quan
Giáo Sư Nguyễn Văn Bông Thực Là Một Nhân Tài Đáng Tiếc
Lá Số & Cuộc Đời Của Nữ Nghệ Sĩ Bích Huyền
Hai Vị Chúa Tể Đáng Sợ Trên Lá Số: Tuần & Triệt
Những Câu Phú Tử Vi Ứng Nghiệm Thế Nào? Đẩu Quân Ở Tử Tức; Nhật Nguyệt Đồng Minh Sửu Mùi...
Thuyết Nhân Quả Căn Bản Giải Thích Tử Vi
Ý Nghĩa Đặc Biệt Của Vòng Tràng Sinh Trong Lý Học Đông Phương