By Tử Vi Chân Cơ| 20:48 03/06/2025|
Bài Viết Sưu Tầm

Các Loại Kỵ Trong Tử Vi Bắc Phái

1. Lưu Xuất Kỵ:

Cung gốc (cung A) có thiên can khiến sao ở cung đối diện (cung B) hóa Kỵ, tức là từ cung gốc hóa Kỵ đến cung đối diện, được gọi là "Lưu Xuất Kỵ", biểu thị ý nghĩa của sao chủ hoặc cung vị của cung gốc (cung A) sẽ chảy ra ngoài, không giữ lại được. Nhưng nếu cung đối diện (cung B) có sao Kỵ sinh năm tọa thủ, thì sẽ hình thành "Nghịch Thủy Kỵ", ý nghĩa lại khác. Giả sử cung gốc (cung A) là Mệnh cung, Sự Nghiệp cung, hoặc Tài Bạch cung, thì Kỵ này còn được gọi là "Thủy Mệnh Kỵ", đại diện cho chủ nhân mệnh bàn này không phù hợp với việc kinh doanh sản xuất, chế tạo, nên phát triển trong các ngành dịch vụ, mua bán, giao dịch tiền mặt hoặc làm người nhận lương.

2. Lưu Thủy Kỵ:

Nếu cung B không phải là cung đối diện của cung A, mà là các cung khác ngoài cung gốc A và cung đối diện, thì Kỵ này được gọi là "Lưu Thủy Kỵ". Cung A sẽ giống như dòng nước chảy về cung B. Nếu cung A là Tài Bạch cung, còn cung B là Nô Bộc cung, tức là Tài Bạch hóa Kỵ nhập vào Nô Bộc, thì tiền tài sẽ chảy vào túi bạn bè, như đại giang chảy về đông, đi mãi không quay lại.

3. Chu Kỳ Kỵ (Kỵ Lai Kỵ):

Cung A và cung B là hai cung bất kỳ trong số sáu cung lục thân trên mệnh bàn, lục thân cung bao gồm: Mệnh cung, Huynh Đệ cung, Phu Thê cung, Tử Nữ cung, Nô Bộc cung, Phụ Mẫu cung. Nếu cung A hóa Kỵ nhập vào cung B, đồng thời cung B cũng hóa Kỵ nhập vào cung A, hai bên qua lại lẫn nhau, Kỵ đi Kỵ lại, hình thái này được gọi là "Chu Kỳ Kỵ". Điều này biểu thị mối quan hệ đối xử bình đẳng giữa hai bên, có tình thì có nghĩa, ân oán rõ ràng, có đức báo đức, có thù báo thù. Ví dụ, nếu cung A là Mệnh cung, còn cung B là Nô Bộc cung, thì nếu bạn chăm sóc bạn bè, đồng nghiệp hoặc cấp dưới, họ chắc chắn cũng sẽ quan tâm và giúp đỡ bạn; nếu bạn không quan tâm đến khó khăn của họ, thì khi bạn gặp khó khăn, chắc chắn cũng sẽ không nhận được sự để ý của họ.

4. Phản Cung Kỵ:

Khi đại hạn hành vận đi vào tam hợp phương của bản mệnh, mà đại hạn Mệnh cung hóa Kỵ nhập vào bản mệnh Phu Thê cung, Thiên Di cung, hoặc Phúc Đức cung, sẽ xung đến bản mệnh Sự Nghiệp cung, Mệnh cung, hoặc Tài Bạch cung, lúc này Kỵ được gọi là "Phản Cung Kỵ". Vì nó giống như boomerang của thổ dân Úc, ném ra rồi sẽ bay trở lại, nên cũng có người gọi là "Hồi Lực Kỵ". Khi nó bay trở lại, nếu không cẩn thận hoặc không đón được tốt, sẽ tự làm tổn thương chính mình. Khi hành vận gặp tình huống này, cần phải thận trọng, nếu không càng bỏ nhiều công sức, lực phản chấn càng mạnh. Thông thường, một khi bị tổn hại, phải mất hơn ba năm nghỉ ngơi dưỡng sức mới có thể phục hồi nguyên khí. Đại hạn đi đến bản mệnh Tài Bạch cung (cung A), bay ra một sao Kỵ nhập vào bản mệnh Phu Thê cung (cung B), sao Kỵ này sẽ xung đến bản mệnh Sự Nghiệp cung (cung C), thì lưu niên đi đến cung B sẽ xảy ra tình huống không thuận lợi, còn lưu niên đi đến cung C, thì cần phải cực kỳ, cực kỳ cẩn thận.

5. Thị Phi Kỵ (Lộc Lai Kỵ):

Giả sử cung A và cung B không phải là cung đối diện của nhau, mà cung A hóa Lộc nhập vào cung B, còn cung B hóa Kỵ nhập vào cung A, hình thái Lộc đi Kỵ lại này được gọi là "Thị Phi Kỵ". Nếu cung A và cung B là cung đối diện của nhau, thì đó là một dạng Lộc, Kỵ xung, không phải "Thị Phi Kỵ". Giữa người với người mới có thị phi, nên "Thị Phi Kỵ" là hiện tượng biểu hiện ở các cung lục thân. Có tình huống "lấy đức báo oán" hoặc "lấy oán báo đức". Tức là một bên một mực đối tốt với bên kia, nhưng lại không nhận được sự hồi đáp tương xứng từ bên kia, thậm chí còn招来 thị phi, oán trách. Ví dụ: Mệnh cung hóa Lộc nhập vào Phu Thê cung, Phu Thê cung hóa Kỵ trở lại Mệnh cung, biểu thị bạn yêu thương vợ/chồng, nhưng vợ/chồng lại chê bạn quản lý quá nhiều, quá chặt, quan tâm quá mức, khiến họ áp lực lớn, không có tự do.

6. Câu Xử Kỵ (Hỗ Xung Kỵ):

Tức là hai sao Kỵ hóa ra từ hai cung khác nhau, tạo thành trạng thái xung đối cung. Ví dụ: Mệnh cung hóa Kỵ nhập vào Phúc Đức cung, còn Nô Bộc cung hóa Kỵ nhập vào Tài Bạch cung, hai sao Kỵ này ở tuyến Tài Phúc tạo thành trạng thái xung đối cung, được gọi là "Câu Xử Kỵ". Điều này chủ về việc tôi và bạn bè sẽ có sự dây dưa không rõ ràng về tài chính, dễ xảy ra tranh chấp, vì vậy cần cẩn thận trong việc qua lại tiền bạc với bạn bè. Nhưng nếu là sao Kỵ của Mệnh cung và Phu Thê cung tạo thành trạng thái xung đối cung, thì cũng được gọi là "Oán Thán Kỵ", vợ chồng sẽ cãi nhau liên miên, sống đến già, cãi đến già.

7. Nghịch Thủy Kỵ:

Nếu Mệnh cung, Tài Bạch cung, Sự Nghiệp cung có "Lưu Xuất Kỵ", tức là cái gọi là "Thủy Mệnh Kỵ". Lúc này, nếu cung đối diện, tức là Thiên Di cung, Phúc Đức cung hoặc Phu Thê cung có sao Kỵ sinh năm tọa thủ, mà không có tự hóa, thì sao Kỵ sinh năm này giống như một bức tường, sẽ chặn "Lưu Xuất Kỵ" lại, khiến nó chảy ngược trở lại, "Lưu Xuất Kỵ" sẽ không chảy ra ngoài, hình thái này được gọi là "Nghịch Thủy Kỵ". Phàm mệnh bàn có "Nghịch Thủy Kỵ", chắc chắn sẽ phát đạt giàu có. Có thể tham gia vào ngành sản xuất chế tạo, kinh doanh chuỗi, sự nghiệp quan hệ, tài nguyên cuồn cuộn, sự nghiệp thăng tiến vượt bậc. Kỵ này nhất định phải do tam hợp bản mệnh bay ra, mà cung đối diện là Thiên Di cung, Phúc Đức cung và Phu Thê cung tuyệt đối không được tự hóa, mới là "Nghịch Thủy Kỵ" đạt chuẩn.

8. Thủy Tiết Kỵ:

Đây là dạng phá cách của "Nghịch Thủy Kỵ", tức là hình thái của "Nghịch Thủy Kỵ", nhưng cung Di Cư, Phúc Đức, hoặc Phu Thê có sao Kỵ sinh năm tọa thủ lại có tình trạng tự hóa, lúc này được gọi là "Thủy Tiết Kỵ". Sẽ có sức phá hoại rất mạnh, đặc biệt là tự hóa Lộc, tự hóa Kỵ, sẽ dẫn đến hậu quả "thảm không nỡ nhìn", dễ thất bại thảm hại, mà thất bại rất nhanh. Tức là như tục ngữ nói "kiếm được bao nhiêu, tiêu hết bấy nhiêu", kiếm được nhiều đến đâu, cũng sẽ tiêu sạch đến đó.

9. Tháo Mã Kỵ (Tứ Mã Kỵ):

"Tháo" mang ý nghĩa tháo rời, chia ly, mà Kỵ này xảy ra ở vị trí "Tứ Mã Địa" trên mệnh bàn, tức là bốn cung góc Dần, Thân, Tỵ, Hợi, vì vậy cũng được gọi là "Tứ Mã Kỵ". Hình thái của nó là sao Kỵ sinh năm rơi vào bốn cung Tứ Mã này, hoặc thiên can của bốn cung này có tự hóa Kỵ, đều được gọi là "Tháo Mã Kỵ". Điều này chủ về sự bôn ba, lao lực, nếu cung này là cung lục thân, thì biểu thị hiện tượng tụ ít ly nhiều với lục thân đó, mà tốt nhất cũng nên tụ ít ly nhiều, nếu không ở chung lâu, rất dễ xảy ra xung đột. Nếu cung này là Mệnh cung, thì chủ về việc phải rời xa quê hương, bôn ba lao lực bên ngoài, và có nhiều cách trở với người khác.

10. Nhập Khố Kỵ:

Cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi được gọi là Tứ Mộ Khố, nếu có sao Kỵ sinh năm tọa thủ, mà lại không có tự hóa, được gọi là "Nhập Khố Kỵ". Mang ý nghĩa giữ tài, tích tài. "Nhập Khố Kỵ" có chút ý nghĩa về nợ nần. Nếu ở cung lục thân, thì chủ về lục thân đó nỗ lực kiếm tiền, mà bạn có thể nhờ đó được lợi. Ví dụ ở Phu Thê cung, thì khi kết hôn, vợ/chồng mang tài đến, hoặc sau khi cưới, vợ/chồng nỗ lực kiếm tiền để bạn tiêu. Nếu không phải cung lục thân, thì bạn phải nỗ lực kiếm tiền. Ví dụ ở Điền Trạch cung, biểu thị gánh nặng sinh kế gia đình lớn, bạn phải kiếm tiền để nuôi gia đình, hoặc nỗ lực làm việc để mua sắm tài sản, là bạn nợ gia đình. Ở Tài Bạch cung thì biểu thị bôn ba vì tiền, nhưng giữ tài chắc chắn, nhưng nếu có bất kỳ tự hóa nào, thì tiền tài không giữ được, sẽ bị thất thoát, lúc này trở thành "Tiết Khố Kỵ".

11. Tuyệt Mệnh Kỵ:

"Tuyệt Mệnh Kỵ quyết định sinh tử, cần phải có sao Kỵ sinh năm tọa thủ ở Mệnh cung. Khi Mệnh cung có sao Kỵ sinh năm, điều đáng sợ nhất là có cung khác hóa Kỵ nhập vào Mệnh cung.
Khi Mệnh cung có sao Kỵ sinh năm, đại hạn Quan Lộc cung hoặc đại hạn Điền Trạch cung lại hóa Kỵ nhập vào Mệnh cung, gọi là Tuyệt Mệnh Kỵ.
Khi Mệnh cung không có sao Kỵ sinh năm, đại hạn Thiên Di cung hóa Kỵ xung bản mệnh; hoặc xung bản mệnh Quan Lộc cung; hoặc đại hạn Điền Trạch cung hóa Kỵ xung bản mệnh, cũng gọi là Tuyệt Mệnh Kỵ.
Tuyệt Mệnh Kỵ là vị trí của kiếp số, việc Tuyệt Mệnh, tức là đại hạn hoặc lưu niên hóa Kỵ không được xung bản mệnh hoặc bản mệnh Quan Lộc cung. Điền Trạch cung cũng không được hóa Kỵ xung bản mệnh hoặc xung bản mệnh Quan Lộc cung.
Tức là bản mệnh cung có sao Kỵ sinh năm, sao Kỵ hóa ra từ Điền Trạch cung hoặc Quan Lộc cung tuyệt đối không được nhập vào bản mệnh, nếu nhập vào bản mệnh thì sẽ có nguy hiểm đến tính mạng.
Khi bản mệnh có sao Kỵ sinh năm, điều đáng sợ nhất là có Kỵ nhập vào, ví dụ Phu Thê cung hóa Kỵ nhập vào bản mệnh cung, thì chủ về việc vợ chồng cãi nhau dẫn đến chia tay, mà trong đó một người trong vợ chồng sẽ gặp vấn đề về sức khỏe hoặc tai nạn khác.
Thiên Di cung hóa Kỵ xung bản mệnh cung; hoặc xung Quan Lộc cung, đồng thời Điền Trạch cung cũng hóa Kỵ xung bản mệnh cung, tình huống này cực kỳ nguy hiểm đến tính mạng.
Thiên Di cung hóa Kỵ xung bản mệnh Quan Lộc cung cũng tương tự như xung bản mệnh, nếu xảy ra tai nạn thì chắc chắn rất nghiêm trọng (lưu niên và đại hạn đều luận như vậy).
Điền Trạch cung hóa Kỵ xung bản mệnh cung, mà bản mệnh cung dù không có sao Kỵ tọa thủ, cũng chủ về nguy hiểm đến tính mạng.
Lưu niên Thiên Di cung không được hóa Kỵ xung bản mệnh cung, nếu xung thì chắc chắn nguy hiểm. Khi Quan Lộc cung có sao Kỵ sinh năm tọa thủ, sao Kỵ từ Thiên Di cung hoặc Điền Trạch cung không được nhập vào Quan Lộc cung, nếu nhập thì hung.
Khi luận lưu niên, có thể trực tiếp dùng Tứ Hóa của lưu niên áp vào bản mệnh bàn để luận. Ví dụ khi xem đại hạn là đại hạn Tài Bạch cung, có thể chỉ là tổn tài mà thôi. Ngược lại, nếu bản mệnh bị xung là đại hạn Tử Nữ cung hoặc Điền Trạch cung, thì tai họa chắc chắn nặng. Duy chỉ có lưu niên Thiên Di cung hóa Kỵ xung bản mệnh thì sẽ ứng với tai họa. Xung Quan Lộc cung cũng tương tự là tai họa, bởi Mệnh cung và Quan Lộc cung là một cặp đồng cung, đây là cách dùng của Tuyệt Mệnh Kỵ."

12. Nhất Khí Sinh Tử Quyết:

Mệnh cung có Hóa Lộc mà thiên can của Nô Bộc cung khiến sao chủ của Mệnh cung hóa Kỵ, hình thành Lộc Kỵ đồng cung, đại hạn đi vào cung đối diện của Lộc Kỵ thì hung (kiểu Lộc Kỵ đồng cung).
Hóa Lộc và Hóa Kỵ ở đối cung xung nhau, đại hạn đi vào tuyến này, chủ có nạn (kiểu Lộc Kỵ đối cung).
Đại hạn Nô Bộc cung hóa Kỵ nhập vào cung có Hóa Lộc hoặc cung có Lộc Tồn (Lộc Kỵ đồng cung), cung này lại tự hóa, người này chắc chắn sẽ mất.
Đại hạn Nô Bộc cung hóa Kỵ nhập vào bản mệnh Nô Bộc cung, mà bản mệnh Nô Bộc cung có tự hóa Kỵ, là điềm hung, cũng chủ về mất mạng.

****

Huyền Diệu của Tứ Hóa Phi Tinh:

Người bình thường học Tử Vi Đẩu Số, có lẽ chỉ xem Mệnh cung, Tài Bạch cung có những sao nào? Hóa Lộc, Hóa Kỵ lại bay đến cung nào, mệnh bàn nào? Những điều như vậy, nếu chỉ để giải trí, tiêu khiển thì được.
Nhưng nếu muốn luận về sự huyền diệu của Đẩu Số, thì không thể không nhắc đến Tứ Hóa Phi Tinh. Nói đến Tứ Hóa Phi Tinh, có lẽ mỗi môn phái đều có những quy tắc mà họ kiên trì; vấn đề nằm ở chỗ: làm thế nào để sử dụng và suy luận chính xác, đó mới là bản hoài của Đẩu Số?

Tứ Hóa Phi Tinh:

Nhiều năm trước, quy tắc Tứ Hóa Phi Tinh được coi là bí mật không truyền ra ngoài; có thể thấy được một vài đoạn văn rời rạc đã là điều không dễ! Nhưng hiện nay, chỉ cần tiện tay là có thể thấy, trên các trang mạng, trong các tiệm sách, nhiều như lông trâu!
Vấn đề không nằm ở chỗ không thể thấy, mà là có thể hiểu đúng được sự tinh diệu trong đó hay không?!
Ví dụ, Phu Thê hóa Kỵ xung Mệnh, Tật Ách, đây là cách ly hôn; hoặc Phu Thê hóa Lộc, Kỵ nhập vào Tử Điền, chủ về đào hoa, v.v. Tứ Hóa chỉ đơn giản như vậy, chỉ cần nhớ vài nguyên tắc là có thể luận mệnh sao nổi?
Đương nhiên không phải! Lấy quy tắc vừa nêu để luận: Phu Thê hóa Kỵ xung Mệnh, Tật Ách, cũng có trường hợp không ly hôn! Theo nguyên lý, Phu Thê hóa Kỵ xung Mệnh, Tật Ách, Mệnh là ta, Tật Ách là thân thể của ta, xung thì không tốt, chắc chắn có sự chia ly.
Nhưng nếu Hóa Lộc nhập vào cung của ta, thì tình duyên vẫn còn, chưa chắc hôn nhân đã biến động; vẫn phải xem xét toàn cục, hoặc nhìn Quyền, Khoa, hoặc xem các mệnh bàn chồng lấp lên nhau như thế nào? Mới có thể luận đoán.
Lại hoặc Hóa Lộc và Hóa Kỵ nhập cung, cung đó có tự hóa, tự hóa thì biến; từ khí biến mà dẫn đến chất biến, vì vậy quy tắc ban đầu phải được mở rộng và suy luận thêm mới được.

Quy Tắc và Biến Hóa:

Lại như Phu Thê phi hóa nhập vào Tử, Điền, hoặc thuộc về đào hoa; nhưng nếu không có các điều kiện đào hoa khác, như bản mệnh có "cách đào hoa", hoặc hành hạn câu kết, thì cũng có thể chỉ là việc vợ chồng chung sống, tình dục, hoặc sinh con mà thôi.
Nhiều người luận Tứ Hóa, thường chỉ luận trong cùng một mệnh bàn, ví dụ như phi hóa của các cung trong bản mệnh, đại hạn mà thôi. Nếu chỉ trong cùng một mệnh bàn, chỉ nói về cách, về thể, là một dạng miêu tả hiện tượng tĩnh, khó mà luận được cát hung thực tế.
Tôi trong bài viết "Đẩu Số Chi Tung và Hoành" từng đề cập: "Tung, là bản mệnh và hành hạn của các mệnh bàn, thể hiện sự phân bố theo chiều dọc; Hoành, là sự di chuyển song song giữa các mệnh bàn với nhau". Tung và Hoành của Đẩu Số đều có thể và dụng riêng, không thể thiên lệch!
Việc vận dụng Tứ Hóa Phi Tinh theo chiều dọc, sẽ liên quan đến vấn đề chồng lấp của các mệnh bàn và các cung, tức là điều mà một số phái Phi Tinh thường nhắc đến là "quá độ". Lấy ví dụ trước đó, nếu Phu Thê hóa Kỵ xung Mệnh, xung Tật Ách, mà Di Cư, Phụ Mẫu là đại hạn Mệnh cung, Điền Trạch, thì vấn đề sẽ giảm đi rất nhiều.
Nhưng sức mạnh của đại hạn không bằng bản mệnh (phần này), bản mệnh bàn vẫn có xung động, vì vậy quan hệ hôn nhân chắc chắn có khuyết điểm. Mà muốn luận xem có ly hôn hay không? Cũng cần phải truy Hóa Lộc đi đâu? Sự chồng lấp của các mệnh bàn, các cung là gì?

Khái Niệm Toàn Diện:

Trong Tứ Hóa Phi Tinh, cần phải suy luận đầy đủ về sự biến hóa của Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ, mới có thể thấy được toàn cảnh; bởi vì Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ là sự biến hóa của khí cung can, thiên can, không phải là phần tồn tại độc lập.
Độ khó của Phi Tinh, ở đây được coi là khá không dễ! Ví dụ Phu Thê hóa Kỵ nhập Di Cư xung Mệnh, nếu Phu Thê tự hóa Lộc, càng hung! Quyền, Khoa có thể suy luận quá trình, hoặc sức mạnh chuyển đổi; cũng có thể ở các cung trọng điểm lại chuyển Tứ Hóa, để tra xét sự biến hóa chi tiết, từ đầu đến cuối.
Trong quá trình vận dụng thực tế, ngoài việc hiểu Tứ Hóa Phi Tinh, ý nghĩa của tính sao, còn cần hiểu sâu về ý nghĩa và nội hàm của các cung, cũng như mối quan hệ đối đãi lẫn nhau giữa các cung (hoạt bàn), điều này rất quan trọng!
Độ khó của Tứ Hóa Phi Tinh, ban đầu là không nắm được quy tắc Phi Tinh, sau đó là lạc lối trong nhiều tầng quy tắc, không thể tự thoát ra! Mà càng biết nhiều quy tắc, thì càng rối loạn!

Yếu Tố Cốt Lõi của Phi Tinh:

Những nguyên tắc Phi Tinh nhìn qua có vẻ phức tạp và rối loạn, thực ra đều là từng sợi từng sợi, đan xen, xuyên suốt mà thành. Vấn đề nằm ở chỗ, nếu không hiểu được khái niệm cơ bản của nó, thì không thể thông đạt được sự sâu rộng.
Cơ bản là, trước tiên phải làm rõ bản chất của cung vị và sao. Đây là nền tảng của Phi Tinh, nhiều người cho rằng phái Tam Hợp và phái Tứ Hóa là nước lửa không dung; nguồn gốc của sự hiểu lầm, chính là không thể hiểu sâu sắc bản chất của chúng!!
Lại có nhiều người cho rằng, Tứ Hóa là do sao hóa ra, nói như vậy chỉ là chạm đến bề mặt mà thôi! Thực ra Tứ Hóa là sự biến hóa của thiên can, như câu nói: "Khí lệnh của trời, gắn với thiên can", mà sự biến hóa của thiên can, cũng không rời địa chi.
Nói đơn giản, Tứ Hóa là do cung vị và sao tương tác mà sinh ra, vì vậy hiểu Tứ Hóa, không thể tách rời cung, sao. Cùng là sao Hóa Lộc, hóa ra từ các sao khác nhau, đến từ hoặc bay vào các cung vị khác nhau, đều có sự khác biệt tinh diệu riêng!
Ví dụ hỏi: Sao Kỵ ở Quan Lộc cung, là ý nghĩa gì? Chúng ta đại khái có thể biết, mệnh này ở vị trí Quan Lộc có lực cản trở; nhưng phải truy xét các điều kiện khác, mới có thể biết chi tiết.
Sao Kỵ ở Quan Lộc, nếu không tự hóa, mức độ nguy hại nhỏ, ngược lại có sự nhiệt tình trong công việc. Nếu cách cục mệnh bàn khác tốt, có thể dựa vào sức mình, phấn đấu vươn lên. Vì Kỵ ở Quan Lộc, lực quý nhân bị kiềm chế.

Rõ Ràng Từng Sợi:

Nhưng nếu Quan Lộc cung tự hóa, lực của sao Kỵ biến động mà không ổn định, vấn đề sẽ lớn hơn. Hoặc Quan Lộc hóa Kỵ xung Mệnh, nhập tuyến Phụ Tật; hoặc Hóa Lộc nhập cung khác, Lộc, Kỵ giao chiến, dễ thành bại cục!
Hơn nữa, sao Kỵ sinh năm cũng có nguồn gốc và diễn biến! Ví dụ Quan Lộc cung có sao Thiên Đồng Kỵ, truy xét can Canh đến từ Tài Bạch, đây là cách thích đầu tư, chuyển đầu tư. Lại tra Hóa Lộc đi đâu? Có thể biết được có kiếm tiền hay không?
Quan Lộc có sao Kỵ sinh năm, chuyển Kỵ xung Mệnh, đó là đòn đánh kép! Nếu chuyển Kỵ đến cung của ta, phần lớn chủ về tích trữ, không luận là hung. Vấn đề là hành hạn sẽ chuyển động, cung của ta biến thành cung của người; hoặc đại hạn Quan Lộc có biến hóa khác, thì lại có cách luận khác!
Nếu thiên can sinh năm tọa ở Quan Lộc, thì hình thành Kỵ sinh năm tự hóa Kỵ; một số học giả phái Phi Tinh cho rằng, lực Kỵ cùng loại triệt tiêu, tổn hại giảm bớt. Thực ra Kỵ sinh năm tự hóa Kỵ, lực Kỵ không giảm mà tăng lớn, không thể xem nhẹ!
Cung có Hóa Lộc, Quyền, Khoa, nếu tự hóa cùng loại, có thể coi là triệt tiêu. Nhưng Kỵ sinh năm tự hóa Kỵ, lực Kỵ kép này lưu động giữa hai cung, trở nên không thể nắm bắt, từ đó sinh ra những trạng thái nguy hại khác nhau!
Về việc đó là loại tổn hại gì, có thể lại chuyển Lộc, Kỵ, hoặc tra xét các cung liên quan để biết. Đương nhiên, cát hung của mệnh bàn nằm ở sự động, vì vậy sự dẫn động của hành hạn, là trọng điểm.

Luận Lại:

Hoặc một cung tự hóa Kỵ, biểu thị cung đó đã bị tổn thương; dù Hóa Lộc đến cung khác, nơi phát nguyên đã có Kỵ thương, khí Lộc đã tổn! Có nhà Đẩu Số gọi là "nguồn gốc không sạch", luận này rất đúng!
Mà bản cung tự hóa Lộc, Hóa Kỵ xung cung của ta; cung đó nếu là cung nhân sự, chủ về vô duyên, có thể hiểu đơn giản là do khí Lộc vô dụng. Nếu không phải cung nhân sự, thì là tổn hại lớn khí của cung đó.
Luận đơn giản thêm một lần nữa, thấy sao Lộc, không cần quá vui, phải truy xét Kỵ ở đâu trước? Sao Kỵ hóa nhập, đừng quá buồn, phải xem Lộc ở đâu? Lộc có thể chuyển, Kỵ cũng có thể chuyển; các loại sao hóa cần xét rõ ràng, tuyệt đối không được mơ hồ mà loạn chuyển theo!

Nguồn: Sưu Tầm
Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ