By Tử Vi Chân Cơ| 07:20 24/11/2024|
Bài Viết Sưu Tầm

Cái Lẽ Huyền Bí Của Tạo Hóa: NGŨ HÀNH CHẾ HÓA

Anh Độ

Theo các vị đã đi sâu vào khoa Tử Vi Đẩu Số, thì sự Sinh, Khắc, Chế, Hóa trong Ngũ Hành rất cần thiết trong khoa Tử Vi và bói toán.

Cụ Nguyễn Văn Uy (Số nhà 72/4 Ngô Tùng Châu), một vị nho học từng nghiên cứu về khoa Tử Vi, trong một buổi nói chuyện với chúng tôi về sự Chế Hóa của Ngũ Hành, có nói rằng: theo sự nghiên cứu của cụ, có khi hai hành khắc nhau, ví dụ như Thủy khắc Hỏa mà lại tốt như Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) với Quý Hợi là Đại Hải Thủy (nước biển lớn). Lửa trên trời tức là mặt trời chiếu xuống biển cả, thì phát ra muôn ngàn hào quang rực rỡ.

1. Kim

Trong cát, giáo gươm hai thứ Kim. Nếu nằm trên Chấn ắt tương xâm Kim còn bốn thứ đều sợ Hỏa.

Gươm cát bắng Hỏa chẳng thành hình.

Ất Mùi là Sa Trung Kim (Kim khí trong cát)

Quý Dậu là Kiếm Phong Kim (Kim khí của gươm giáo)

Cả hai đều không nên gặp Mộc vì cây không sống được nếu trồng trên đất có chất Kim khí và cây mà gặp gươm giáo sẽ bị chặt gẫy. Nhưng hai thứ Kim đó mà gặp Hỏa lại tốt, vì có lửa mới rèn thành gươm giáo, có lửa thì chất Kim vùi trong cát (vàng cốm) mới trở thành nén vàng quý giá. Còn các thứ Kim khác đều sự Hỏa (khắc).

2. Thủy

Thủy ở sông Ngân cùng biển cả.

Cả hai chẳng sợ Thổ địch cừu.

Ngoài còn mấy thứ đều kỵ Thổ.

Một đời cơm áo thật khó cầu...

Đinh Mùi là Thiên Hà Thủy (nước sống Ngân Hà) và Quý Hợi là Đại Hải Thủy (nước biển cả) không sợ Thổ vì nước sông Ngân hà trên trời cách xa với mặt đất và đất thì không hút nổi hết nước biển cả.

Còn Thổ khác tất cả các thứ Thủy khắc.

3. Mộc

Mộc Tằm dâu, liễu dương, tùng bách

Thạch lựu, rừng sâu đều kị Kim

Duy chỉ cây trồng đồng bằng Mộc

Thiếu Kim sao được mọc lên cao?

Các thứ Mộc như Quý Sửu là Tang Đố Mộc (gỗ cây dâu tằm), Quý Mùi là Dương Liễu Mộc (gỗ cây dương liễu), Tân Mão là Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng bách), Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây lựu), Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc (gỗ cây rừng lớn) đều sợ Kim. Đất mà có chất Kim khí thì cây sẽ chết, nếu gặp rìu búa, cây sẽ bị đốn gẫy.

Duy chỉ các cây trồng ở đồng bằng như ngũ cốc, cây có trái, cây cảnh thì lại cần phải có đồ Kim khí như cày, cuốc, liềm, kéo để cầy, vun xới, tỉa xén, thì mới mọc tốt và cây cảnh mới đẹp được.

4. Hỏa

Đèn lồng, lò lửa, cùng đỉnh núi

Thầy Thủy, cả ba đều chẳng hay 

Lại còn ba thứ chẳng kiêng Thủy 

No ấm một đời, giầu lại sang 

Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa (Lửa đèn lồng), Đinh Mão là Lô Trung Hỏa (lửa trong lò) Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa (lửa đỉnh núi) ba thứ đó kỵ Thủy, gặp Thủy là tắt liền.

Nhưng ba thứ khác: Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa (lửa chân núi), Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa (Lửa sấm sét), Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) gặp Thủy, không bị ảnh hưởng gì hại mà còn tốt vì hợp với tình thế.

5. Thổ

Thành lũy, mãi nhà, cùng trên vách 

Ba Thổ đều sợ Mộc đâm xói

Ngoài còn ba thứ chẳng sợ Mộc

Một đời thanh quý, bước lên mây.

Kỷ Mão là Thành Đầu Thổ (đất trên thành lũy) Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ (đất trên mái nhà), Tân Sửu là Bích Thượng Thổ (đất trên vách nhà). Ba thứ đất này đều sợ Mộc (Mộc khắc Thổ) vì nếu cây mà mọc trên các thứ đất đó, rễ sẽ đâm xuyên làm cho đất lở và nứt ra.

Còn ba thứ Thổ khác mà gặp Mộc lại tốt như:

Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ (đất mặt đường) cần có cây cối mọc bên đường cho rợp mát. Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ (đất ở các cung, trạm bay cầu quán) cũng cần có cây mọc để cho trạm hay cầu quán được đẹp mắt. Đinh Tị là Sa Trung Thổ (đất trong cát) đất trong cát rất tốt cho các việc trồng ngô, hoặc trên bãi sa mạc có cây mọc thì còn gì bằng?

Giai thoại về Sinh, Khắc, Chế, Hóa của Ngũ Hành:

A. Một trường hợp Kim sinh Thủy:

Để cho ta thấy rõ về Sinh Khắc, Chế Hóa của Ngũ Hành, người xưa đã kể lại những giai thoại đã có để chứng minh lẽ huyền bí của Tạo hóa.

Trong thời Chiến Quốc, Thái Trạch người nước Yên, học rộng, tài cao đi du thuyết các nước chư hầu, nhưng không có nước nào dùng. Khi đến các nước Lương, nghe tiếng có Đường Cử là người giỏi về khoa Tướng số liền tìm đến xin vào gặp mặt để hỏi vì sao mà mình cứ lận đận và đến bao giờ mới đạt được công danh, phú quý.

Đường Cử ngắm nhìn Thái Trạch rồi nói:

- Tiên Sinh mũi như con rết, vai cao hơn đầu, trán nhăn, mày cau, hai chân khuỳnh khuỳnh. Tôi nghe bậc Thánh nhân mà như vậy cũng không cần xem tướng, huống hồ là Tiên Sinh.

Thái Trạch nghe Đường Cử nói như vậy biết là nhà tướng số nước Lương có ý chê mình diện mạo xấu xa không làm nổi bậc Công Khanh nhưng Thái Trạch vốn tin mình học rộng, tài cao thế nào cũng có ngày áo bào tung tăng bay trước gió, vinh quy bái tổ về làng. Ông ta nói với Đường Cử:

- Phú Quý thì tôi đã có sẵn, học thức thì Trạch này chưa phải thua những bậc lương đồng của các nước. Chỉ xin Tiên Sinh cho biết Trạch này còn sống đến bao giờ nữa.

Đường Cử tính một lúc rồi nói:

- Tuổi thọ của Tiên Sinh còn dài. Kể từ nay còn 43 năm nữa.

Thái Trạch cười lớn:

- Trạch này vốn ăn ngon, mặc đẹp, đi thì lên xe, xuống nựa, ngọc dắt, vàng đeo, vái nhường trước vị quân nhân. Như vậy thì 43 năm cũng đủ cho Trạch này đường mây rộng bước.

Nói xong, từ biệt ra đi. Sau khi sang nước Hàn, thăm nước Triệu, Thái Trạch vẫn chưa tìm được minh chủ. Khi trở về Ngụy, không may nửa đường bị cướp, mất sạch của hành lý.

Đang khi bụng đói không biết xoay sở vào đâu, ngồi nghỉ ở dưới gốc cây bên vệ đường thì gặp Đường Cử đi qua trông thấy. Nhìn Thái Trạch trong tình cảm vậy. Đường Cử hỏi đùa:

- Sao, Tiên Sinh chưa gặp minh chủ à?

Thái Trạch đáp:

- Còn đang tìm kiếm đây

Đường Cử nghiêm nét mặt nói:

- Tiên Sinh cốt tướng thuộc về Thủy, Tiên Sinh đã thừa biết Kim sinh Thủy. Tại hướng Tây, thuộc Kim, có nước Tần đang cường thịnh mà vua Tần lại chiêu hiền, đãi sĩ. Phạm Chuy, Thừa tướng nước Tần đang lo sợ chức vụ của mình bị lung lay vì Chuy đã bảo lãnh với vua Tần cho Trịnh An Bình và Vương Kê. Nay hai kẻ đó vừa phạm tội đối với triều đình. Theo luật nước Tần, kẻ bảo lãnh cũng bị tội như chánh phạm nên Phạm Chuy đang nóng lòng muốn từ chức. Tiên Sinh sao chẳng sang nước Tần mà tìm công danh chớ chịu khốn đốn ở đây sao?

Nói xong, Đường Cử mời Thái Trạch về nhà ăn ở rồi tặng mấy nén vàng làm lộ phí sang Tần. Quả nhiên, Thái Trạch được vua Tần trọng dụng và thay Thừa tướng Phạm Chuy, phò tá Tần gom thâu thiên hạ.

B. Trường hợp Hỏa chế hóa Kim:

Cuối thời chiến quốc, sau khi diệt được Tần, Tây Sở Bá Vương Hạng Võ cậy mình sức mạnh, tự cho mình như một vị Hoàng Đế, cắt đất, phong hầu cho các bạn đồng minh đã diệt Tần. Các đồng minh của Hạng Võ vì thế yếu phải tự coi như chư hầu của Sở Bá Vương.

Trong các đồng minh này có Lưu Bang (sau này khai sáng ra nhà Hán) là có thực lực có thể đối chọi với Hạng Võ, Hạng Võ tìm cách chèn ép, đàn áp Lưu Bang, vì sợ sau này Lưu Bang sẽ cường thịnh trở thành một đối thủ lợi hại. Nay nhân dịp cắt phong hầu, Hạng Võ cũng biết Lưu Bang là người có công lao lớn nhất trong việc diệt Tần, nhưng nếu cắt một nơi ruộng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc mà cho Lưu Bang, thì sau này Lưu Bang sẽ cường thịnh, phong phú, có thể nhân đà ấy quật lại mình thì sao? Do đó, sau khi suy tính kỹ lưỡng, Hạng Võ cho Lưu Bang cai trị đất Tây Thục là đất xa xôi núi non hiểm trở. Hạng Võ yên trí là Lưu Bang sẽ bó tay không làm gì được. Nếu mình sai một tướng tài giỏi trấn thủ nơi hiểm yếu Lưu Bang sẽ bị cô lập, quân đội sẽ tan rã vì bọn lính sẽ bỏ Lưu Bang mà đi vì không ai thích từ bỏ quê hương để đi sống nơi viễn xứ.

Nhưng Phạm Tăng, một người trí lược, mưu cơ, quân sư của Hạng Võ cho ý định của Hạng Võ là thất sách và nghĩ rằng:

- Lưu Bang dùng toàn màu đỏ, cờ đỏ, áo đỏ. Như vậy thuộc hành Hỏa. Nay được cai trị đất Tây Thục thuộc về hành Kim. Kim gặp Hỏa sẽ thành khí nghĩa là các chất Kim khi được gặ lửa thì sẽ chảy ra, rèn đúc được các đồ hữu dụng như vũ khí...

"Nếu vậy là thả hổ về rừng, trái hẳn với ý nghĩ của Sở Vương, Lưu Bang sẽ trở nên dũng mãnh có thể diệt được Sở".

Quả nhiên đúng như sự phỏng đoán của Phạm Tăng, chỉ và năm sau, Lưu Bang tiến quân phá tan Tần, diệt Sở, nhất thống thiên hạ rồi khai sáng ra nhà Hán lưu truyền cơ nghiệp được 400 năm.


Nguồn: KHHB

Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ