By Tử Vi Chân Cơ| 09:40 20/04/2024|
Bài Viết Sưu Tầm

CỐT TỦY PHÚ KÈM CHÚ GIẢI

Sao Thái Cực là chủ thể của muôn vàn tinh tú; Thiên Môn ở vận hạn chính là nguồn gốc để giúp Thân trợ Mệnh. Tại đẩu vận dụng vô thường, tại số của Mệnh có cách cục. Đầu tiên phải biết rõ cách cục rồi sau mới xem ác tinh.

Có khi sinh cùng năm, tháng, ngày, giờ nhưng lại có sự khác biệt về vận mệnh, giầu nghèo, bần tiện, thọ yểu. Hoặc tai nạn xấu, có khi lại có thật nhiều tiền bạc, còn khi ở Miếu Vượng quanh năm khốn khổ, họa phúc không thể quy về một để mà suy đoán, cát hung không thể phán đoán theo một kiểu. Muốn biết sự vinh nhục của đời người cần xem kỹ cung vị Ngũ Hành. Lập Mệnh biết được sang hèn, an Thân để hiểu được căn cứ. Thứ nhất, xem cung Phúc Đức, tiếp đến xem tỉ mỉ kỹ càng cung Thiên Di. Phân Thể - Dụng của cung đối, định cội nguồn của Tam Hợp. Mệnh không có chính tinh chủ nghèo khổ, yểu thọ. Cát gặp hung tinh thì ngọc lành có tì. Nếu có nền tảng kiên cố cần phải biết hợp Cục tương sinh, nếu kiên cố thì phú quý thọ lâu, tương sinh thì giầu sang vinh hiển.

Mệnh tốt, Thân tốt, Hạn tốt thì đến già vẫn sang hiển:

Giả sử, cung Thân, Mệnh tọa tại cung Trường Sinh, Đế Vượng lại có cát tinh ở miếu vượng với đại, tiểu hạn gặp cát tinh tương sinh thì một đời mưu cầu điều gì đều được như ý.

Mệnh suy, Thân suy, Hạn suy thì cả đời sống trong nghèo khổ, khốn khó:

Giả sử, cung Thân, Mệnh tọa tại cung Tuyệt địa, bản cung không thấy hóa cát lại hội với Dương Nhẫn, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Địa Không, Địa Kiếp vận hạn không có cát tinh tương trợ, chắc chắn sẽ bần tiện.

Giáp Quý, giáp Lộc ít người biết, giáp Hóa Quyền, Hóa Lộc là rất may:

Giả sử, người sinh năm Bính, Đinh, Mậu, Quý an Mệnh tại cung Thìn, Tuất có Thiên Khôi, Thiên Việt đến kẹp, lại gặp Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phủ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc kẹp cung Thân, Mệnh gọi là giáp quý chủ về giầu sang. Nếu như người sinh năm Giáp an Thân, Mệnh tại cung Sửu, Mão còn có Hóa Lộc tọa tại cung Dần là Lộc sinh thành là thượng cách. Ngoài ra nếu người sinh năm Giáp Dần, Ất Mão, Canh Thân, Tân Dậu cũng tương tự như vậy. Cách cục này người sinh năm Giáp an Mệnh tại Tý, có Liêm Trinh, Hóa Lộc tại Hợi, Phá Quân, Hóa Quyền tại Sửu, có Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc tại Mệnh chắc chắn chủ về giầu sang.

Giáp Nhật, Nguyệt ai có thể gặp được, giáp Xương, Khúc chủ về giầu sang:

Giả sử, Thái Dương, Thái Âm nằm ở hai cung cạnh Thân, Mệnh để kẹp Mệnh, không gặp Địa Không, Địa Kiếp, Dương Nhẫn, Linh Tinh chủ quý hiển. Nếu như có Văn Xương, Văn Khúc kẹp Mệnh thì cũng tương tự như trên.

Giáp Kiếp, Không chủ về bần tiện, giáp Dương, Đà chủ về vận thế khốn khó bần hàn:

Giả sử, cung Mệnh Hóa Kỵ, gặp Địa Không, Địa Kiếp, Dương Nhẫn, Đà La kẹp Thân, Mệnh lại gặp Liêm Trinh, Phá Quân, Vũ Khúc chủ về cô độc, bần hàn là hạ cách, nếu không cũng yểu thọ.

Hay cung Mệnh Hóa Kỵ lại gặp Liêm Trinh, Dương Nhẫn, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh đến kẹp, cũng là hạ cách, Hóa Lộc đóng ở cung sinh vượng tại Dậu tuy kẹp Lộc, Dương Nhẫn, Đà La nhưng không phải là hạ cách hoặc nếu không gặp Dương Nhẫn, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp mà ở Tam Phương có Hóa Quyền, Hóa Lộc thì cũng không đến nỗi bị kẹp mà gặp cung hại. Nhưng nếu gặp Sát thì vận Mệnh có tai họa.

Người có sao Liêm Trinh, Thất Sát ngược lại chủ giầu có:

Liêm Trinh thuộc hành Hỏa, Thất Sát thuộc hành Kim, Hỏa khắc chế Kim là Quyền. Nếu như Liêm Trinh tọa ở cung Mùi, Thất Sát tọa ở cung Ngọ, Thân, Mệnh gặp được là kỳ cách, ngược lại cũng giầu có. Còn nếu tọa tại hãm địa Hóa Kỵ thì là hạ cách có Mệnh bần tiện.

Thiên Lương, Thái Âm là cách Cục tha hương:

Có Thái Âm tọa ở Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ tại hãm địa. Thiên Lương tọa ở cung Thân, Mệnh tại hai cung Hợi, Tỵ chắc chắn sẽ cô độc, bần hàn nếu không cũng phiêu bạt tha hương, đam mê tửu sắc. Lại có thuyết cho rằng: Thiên Lương dù không thất hãm cũng không phải là người đôn hậu.

Liêm Trinh chủ hạ tiện cô đơn, Thái Âm chủ một đời vui vẻ:

Giả sử, an Thân, Mệnh tại Tỵ, Hợi lại gặp Liêm Trinh tại hãm địa, tại Tam Phương và hai cung trước sau lại không có cát tinh đến trợ giúp, chính là Mệnh bần tiện. Hay như cung Thân, Mệnh từ cung Mùi đến cung Tý gặp Thái Âm chủ về giầu sang, hoặc có nhiều cát tinh tương trợ thì phú quý không nhỏ, hoặc cát tinh ít cũng chủ về văn chương thành danh.

Trước nghèo sau giầu là cách Cục Vũ Khúc, Tham Lang cùng tọa ở cung Thân, Mệnh:

Lập Mệnh tại cung Sửu, Mùi có hai sao này đồng cung, tính Kim của Vũ Khúc khắc tính Mộc của Tham Lang, Mộc bị chế hóa thành ra hữu dụng. Cho nên trước tuy nghèo mà sau giầu có. Hoặc Tam Phương có Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật cũng chiếu nên chủ về quý. Hạn gặp Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc sẽ quý hiển.

Trước giầu sau nghèo là cách Cục gặp vận hạn gặp Kiếp Sát:

Tại cung Thân, Mệnh có một hoặc hai chính tinh, lại gặp cát tinh cũng chiếu hạn, đến trung niên hạn hành đến tuyệt địa, lại gặp Địa Không, Địa Kiếp, Đại Hao, Thất Sát thì rất hung họa, Thân, Mệnh vô lực nên có giầu cũng hóa nghèo.

Sinh ra đã hưởng vinh hoa là cách Cục có Hóa Quyền, Hóa Lộc tọa thủ ở cung Tài Bạch, Quan Lộc:

Hóa Quyền, Hóa Lộc tọa thủ ở cung Tài Bạch, Phúc Đức nhập Miếu lại được nhiều cát tinh tương trợ thì chắc chắn sẽ được hưởng vinh hoa. Cung Thân, Mệnh gặp cũng luận đoán tương tự như thế.

Văn Xương, Văn Khúc là người học rộng biết nhiều, Tả Phù, Hữu Bật bẩm tính khoan dung đôn hậu:

An Mệnh tại cung Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi, Mão, Dậu gặp Văn Xương, Văn Khúc. Nếu như hai sao này tọa ở cung Mùi lại gặp Dương Nhẫn, Đà La thì có tai ương. Cho nên khi đoán Mệnh cần phải biến hóa linh hoạt, nếu như gặp Tả Phù, Hữu Bật tọa ở cung Mệnh bất kể các sao khác có nhiều hay ít đều chủ về người có tính cách đôn hậu, rộng lượng.

Thiên Phủ, Thiên Tướng là thần hưởng lộc thăng hoa kẻ sĩ mà làm quan thì nhất định hanh thông:

An Mệnh tại cung Sửu, Thiên Phủ, Thiên Tướng tọa ở Tỵ, Dậu đến chầu, an Mệnh tại cung Mùi có Thiên Phủ, Thiên Tướng ở Hợi, Mão đến chầu. Người sinh năm Giáp không có Sát Tinh thì phán đoán như trên, còn nếu gặp Sát Tinh thì phán đoán ngược lại.

Có nụ mà không nở hoa, khoa danh bị hãm bởi hung thần:

Hóa Khoa bị hãm bị Địa Không, Địa Kiếp, Dương Nhẫn, Đà La hoặc có Thái Dương tọa tại Tuất, Hóa Khoa, Thái Âm tọa tại Mão tuy là hóa cát nhưng Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc cũng không tốt đẹp.

Phát mà không giữ tiền, Hóa Lộc hành ở nhược địa:

Hóa Lộc bị hãm bởi Địa Không, Địa Kiếp, hoặc đóng tại các cung Tý, Ngọ, Thân, Dậu tuy có Hóa Lộc nhưng cũng vô dụng chủ về cô độc bần hàn.

Thất Sát Triều Đẩu là cách Cục: tước lộc vinh hoa:

An Thân, Mệnh tại bốn cung: Dần, Thân, Tý, Ngọ có Thất Sát tọa thủ chính là trường hợp này. Nhưng cũng cần phải có Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc tọa chiếu chủ về một đời phú quý vinh hoa. Hoặc gặp hạn cát lợi thì càng tốt đẹp. Nếu như thêm Sát Tinh thì không luận đoán như vậy.

Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung là cách Cục một đời hưởng phúc hậu:

An Mệnh tại hai cung Dần, Thân có Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung, tam phương có Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt củng chiếu chủ về phú quý một đời được hưởng phúc dầy. Người sinh năm Giáp gặp hóa cát thì càng tốt.

Tử Vi tọa ở Ngọ không gặp Sát Tinh làm quan đến hàng công khanh:

Người sinh năm Giáp, Đinh, Kỷ an Mệnh tại cung Ngọ có Tử Vi nhập cách chủ về đại quý. Nếu có các cung khác cũng chủ về giầu có hoặc ít nhiều có sang trọng.

Thiên Phủ tọa ở Tuất có sao trợ giúp là cách Cục đai vàng áo gấm:

Người sinh năm Giáp, Kỷ an Mệnh tại Tuất cũng phán đoán giống như trên. Nếu thêm Sát Tinh thì không luận đoán như vậy phải có Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật, Lộc Tồn, Hóa Quyền chủ về đại quý, nếu không có cát tinh thì cũng bình thường.

Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc hội hợp là cách Cục danh tiếng vang dội:

Tam Hóa này là cát tinh, nếu như một Hóa tọa thủ cung Mệnh, Thân còn hai hóa tọa ở Tài Bạch, Quan Lộc đến hội hợp, là Tam Hợp thủ chiếu gọi là Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc hội chiếu có thể làm quan đến vị trí Tam Đài.

Vũ Khúc tọa ở Miếu Viên, là cách cục uy danh hiển hách:

An Mệnh tại hai cung Thìn, Tuất có Vũ Khúc tọa thủ chắc chắn là thượng cách còn an Mệnh tại cung Mùi là thức cách. Nên gặp Hóa Khoa, Hóa Lộc, Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc cát tinh thì phán đoán như trên.

Khoa Minh Lộc Ám làm quan đến hàng Tam Công:

Người sinh năm Giáp an Mệnh tại cung Hợi có Hóa Khoa tọa thủ tại cung Mệnh lại có Lộc Tồn tọa ở cung Dần, Dần hợp với Hợi, cho nên gọi là Khoa Minh Lộc Ám.

Thái Dương, Thái Âm đồng lâm là cách cục làm quan đến hàng Bá Hầu:

An Mệnh tại cung Sửu có Thái Dương, Thái Âm tọa tại cung Mùi, an Mệnh tại cung Mùi có Thái Dương, Thái Âm tọa tại cung Sửu thì gọi là đồng lâm. Ca quyết viết rằng: "Thái Dương, Thái Âm đồng lâm luận cung đối, người sinh năm Bính, Tân gặp được thì phúc hưng long".

Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung, làm quan đến hàng Công Khanh:

Người sinh năm Tân, Ất an Mệnh tại cung Mão có hai sao này tọa thủ lại gặp Văn Xương, Văn Khúc, Tả Phù, Hữu Bật là thượng cách. Còn nếu sinh năm Bính là thứ cách người sinh năm Đinh cũng chủ về bình thường. Khi nó tọa ở cung khác thì không luận đoán như thế.

Tham Lang, Linh Tinh cùng thủ là cách Cục làm danh tướng:

An Mệnh tại các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tý có hai sao này tọa thủ nhập Miếu luận đoán giống như trên. Nếu như thêm cát tinh chỉ tọa thủ ở hai cung Tý, Thìn là đặc biệt tốt còn người sinh vào năm Mậu, Kỷ là hợp cách.

Thiên Khôi, Thiên Việt là cách cục chủ về người có tài văn chương cái thế:

Kỵ tinh tọa ở Thân, Mệnh cung đối có Thiên Việt tọa thủ hay Thiên Việt tọa ở cung Thân, Mệnh cung đối có Thiên Khôi thì gọi là tọa quý hướng quý, nếu càng hợp với cát hóa thì càng quý hiển.

Thiên Lộc, Thiên Mã là cách cục thi cử đỗ đạt:

An Mệnh tại bốn cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi có Thiên Lộc, Thiên Mã tọa thủ càng gặp Tam Thai cát tinh thủ chiếu cũng luận đoán như trên, còn thêm Sát Tinh thì không luận đoán như thế.

Tả Phù, Văn Xương hội với cát tinh là cách cục ngồi ở ngôi tôn quý:

An Mệnh tại cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có các sao này tọa thủ là thượng cách, tam phương có cát hóa củng chiếu là đặc biệt tốt, nếu như an Mệnh tại cung Mão không có Sát Tinh thì kém hơn một bậc, nếu gặp Dương Nhẫn, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không thì không đoán như vậy.

Cự Môn, Thái Dương đồng cung ba đời làm quan:

Cự Môn, Thái Dương an tại Mệnh tại cung Dần không có Địa Không, Địa Kiếp, Tứ Sát là thượng cách tại cung Thân là thứ cách còn tại cung Tỵ, Hợi thì không tốt. Nếu như cung Tỵ có Thái Dương tọa thủ ở Mệnh, còn Cự Môn tọa tại Hợi là thượng cách, Cự Môn thủ Mệnh tại cung Tỵ, Thái Dương tọa cung Hợi không tốt là hạ cách. Cung Thân có Thái Dương thủ Mệnh, Cự Môn đến đồng viên không có Sát thì là người bình thường.

Tử Vi, Thiên Phủ triều viên một đời hưởng lộc:

An Mệnh tại cung Dần, Ngọ, Tuất có Tử Vi, Thiên Phủ đến chầu, hay an Mệnh tại cung Thân, Tý, Thìn có Tử Vi, Thiên Phủ đến chầu là cách cục tốt, càng gặp sao Lộc Tồn ở lưu niên thì làm quan đến vị trí công khanh. Nếu như Thất Sát tọa ở cung Dần, Thân cũng là thượng sách thêm Tứ Sát cát tinh Hóa Kỵ là người bình thường.

Hóa Khoa, Hóa Quyền đối cung vượt qua ba bậc vũ môn:

Hai sao này tọa ở cung Thiên Di, Tài Bạch, Quan Lộc đối cung hoặc cung Mệnh có Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc ở Tam Phương thủ chiếu, không có Sát Tinh kẹp cũng phán đoán như vậy.

Thái Âm, Thái Dương cùng sáng phò tá quân vương nơi điện ngọc:

An Mệnh tại cung Sửu có Thái Âm tọa tại Tỵ, Thái Dương tọa tại Dậu đến chầu chiếu, người sinh năm Tân, Ất là hợp cách, người sinh năm Bính chủ về quý, người sinh năm Đinh chủ về phú thêm Tứ Sát Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ thì bình thường.

Thiên Phủ, Thiên Tướng cùng đến hội ở cung Mệnh cả nhà sung túc đầy đủ:

Nếu Tam Thai thủ chiếu, càng gặp nhiều cát tinh ở bản cung Thân, Mệnh không có bại là cách cục Phủ Tướng triều viên chủ phú quý. 

Ca quyết viết: "Cách cục Phủ Tướng Triều Viên là rất tốt, kẻ sĩ làm quan lớn mà vinh hoa"

Tam Hợp Minh Châu sinh vượng địa, đường thăng quan rộng bước:

An Mệnh tại cung Mùi có Thái Dương tọa tại cung Mão, Thái Âm tọa tại cung Hợi đến chầu triều là cách cục Minh Châu Xuất Hải, chủ về tài vận và quan vận song mỹ. Nếu như Thái Dương thủ Mệnh tại cung Thìn, Thái Âm tọa tại cung Tuất, hay Thái Âm thủ Mệnh tại cung Tuất, Thái Dương tọa tại cung Thìn đều chủ về cực quý.

Thất Sát, Phá Quân nên xuất ngoại:

Hai sao này hội tại cung Thân, Mệnh tại hãm địa chủ về người có tay nghề khéo léo, nếu xuất ngoại thì có thể thành công. Luận Thất Sát tọa ở cung Dần, Thân. Phá Quân tọa tại Tỵ, Hợi.

Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương là người làm văn phòng:

Bốn sao này tam hợp ở cung Thân, Mệnh nhân viên là người theo nghiệp viết lách mà thu được thành tựu. Thêm Sát, Hóa Kỵ là hạ cách. 

Ca quyết viết: "Thiên Cơ, Thiên Đồng, Thái Âm, Thiên Lương hội ở Dần, Thân là người theo nghiệp viết lách nếu bốn sao này chỉ thiếu một cũng là không hợp cách".

Tử Vi, Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm cư ở vượng địa có khí chất của bậc công hầu:

Tử Vi tọa tại cung Ngọ, Thiên Phủ tọa cung Tuất, Thái Dương tại cung Mão, Thìn. Thái Âm tọa tại Dậu, Tuất, Hợi lại Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền tọa thủ ở cung Mệnh, Thân là cách cục này. Thêm Thất Sát, Địa Không, Địa Kiếp, Kỵ tinh tức là cách cục ngọc quý có vết.

Thái Dương, Thái Âm, Hóa Khoa, Hóa Lộc trong cung Sửu sẽ làm quan đến hàng vương bá:

An Mệnh tại cung Sửu, Mùi, Thái Dương, Thái Âm, Hóa Khoa, Hóa Lộc tọa thủ nếu như không có cát tinh thì tuy có Thái Dương, Thái Âm đồng cung cũng không trọn vẹn. 

Ca quyết viết: "Thái Dương, Thái Âm thủ Mệnh tại cung Sửu, Mùi tam phương không có cát tinh, phúc không sinh, nếu như có cát hóa thì mới tốt, phương diện uy quyền, phúc lộc đều tăng".

Thiên Lương, Thiên Mã hãm chủ phiêu lãng:

An Mệnh tại cung Tỵ, Hợi, Thân có Thiên Lương thất hãm, còn có Thiên Mã đồng cung hoặc Hỏa Tinh, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp thất hãm cũng phán đoán dựa vào tính chất của các sao.

Liêm Trinh không gặp Sát Tinh thanh danh được vang xa:

Sát chính là nói Tứ Sát nếu như an Mệnh tại cung Mão chủ về quý cũng nên có cát tinh củng chiếu tam hợp thêm Sát thì bình thường. Hoặc an Mệnh tại hai cung Mùi, Thân không có Sát cũng tốt.

Nhật Chiếu Lôi Môn, vinh hoa phú quý:

An Mệnh tại cung Mão có Thái Dương tọa thủ, tam phương có Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt thủ chiếu phú quý không nhỏ. Người sinh năm Bính, Đinh sẽ sang trọng, còn người sinh năm Nhâm, Quý sẽ giầu có.

Tứ Mộ gặp Tả Phù, Hữu Bật làm quan lớn:

An Mệnh tại cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có hai sao này tọa thủ hoặc cung Thiên Di, Quan Lộc, Tài Bạch gặp hai sao này cũng chủ về phúc thọ làm quan lớn.

Thiên Lương tọa ở cung Ngọ làm quan thanh hiển:

Tức là an Mệnh tại cung Ngọ có Thiên Lương tọa thủ người sinh năm Đinh là thượng cách, người sinh năm Tỵ là thứ cách, còn người sinh năm Quý cũng là thứ cách và chủ về sang trọng.

Văn Khúc gặp Thiên Lương làm quan có chức trọng quyền cao:

Tức là an Mệnh tại cung Ngọ có hai sao đồng cung tọa thủ là thượng cách còn tại cung Dần là thứ cách. Hoặc Thiên Lương tọa tại cung Ngọ, Vũ Khúc tại cung Tý xung chiếu, làm quan đến hàng nhị phẩm, tam phẩm.

Hóa Khoa, Hóa Lộc hội hợp thăng quan tiến chức:

Cung Mệnh có cát tinh tọa thủ tam phương hóa cát củng xung, hoặc tại cung Tài Bạch gặp Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc đều chủ về phú quý.

Văn Tinh ám củng, thi cử đỗ đạt:

Cung Mệnh có cát tinh tọa thủ, cung Thiên Di, Quan Lộc, Tài Bạch ở tam phương có Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa triều củng chính là cách cục này.

Dương Nhẫn, Hỏa Tinh uy quyền xuất chúng, đồng hành với Tham Lang, Vũ Khúc trấn áp biên cương:

Tức an Mệnh tại Tứ Mộ là Thìn, Tuất, Sửu, Mùi lại gặp Dương Nhẫn, Hỏa Tinh nhập miếu người này văn võ song toàn, nắm giữ binh quyền vạn dặm. Nếu như gặp Tham Lang, Vũ Khúc, Hỏa Tinh tại vượng địa cũng có cách cục giống như vậy.

Lý Quảng không được phong, Dương Nhẫn gặp Lực Sĩ:

Hai sao này thủ Mệnh có cát tinh đa phần luận là bình thường. Có thêm Sát Tinh thì rất là hung hiểm không luận cho Mệnh nữ.

Nhan Hồi yểu Mệnh, có Văn Xương hãm ở Thiên Thương:

Nhan Hồi sinh năm Sửu an Mệnh tại cung Dần có Văn Xương hãm tại cung Mùi, lưu niên lại gặp Thất Sát với Dương Nhẫn, Đà La chiếu, hạn nên yểu thọ.

Trọng Do mạnh mẽ, có Liêm Trinh nhập miếu gặp Tướng Quân:

Tức lập Mệnh tại cung Thân có hai sao Liêm Trinh, Tướng Quân tọa thủ là cách cục này.

Tử Tư tài năng có Cự Môn, Thiên Đồng, Thiên Lương xung hợp:

Lập Mệnh tại cung Thân, cung Tý có Thiên Đồng, cung Dần có Cự Môn, cung Thìn có Thiên Lương lại được Hóa Khoa, Hóa Quyền, Hóa Lộc, Tả Phù, Hữu Bật củng xung là hợp với cách cục này.

Cung Dần, Thân ưa nhất có Thiên Đồng, Thiên Lương hội họp:

An Mệnh tại cung Dần có Thiên Đồng, Thiên Lương hóa cát người sinh năm Giáp, Canh với Thân sẽ phú quý, hay an Mệnh tại cung Thân có Thiên Đồng, Thiên Lương hóa cát, người sinh năm Giáp, Canh với Dần cũng được giầu sang.

Cự Môn tọa ở cung Thìn, Tuất chỗ hãm:

An Mệnh tại hai cung Thìn, Tuất có Cự Môn khắc hãm, chủ về người này làm việc ngông cuồng, không suy xét trước sau. Nếu như thêm Sát chủ về tranh chấp thị phi, không tránh khỏi hình thương, càng gặp ác tinh ở hạn thì càng lắng lo.

Lộc đảo, Mã đảo, kỵ Thái Tuế, hợp với Địa Không, Địa Kiếp:

Thiên Lộc, Thiên Mã lâm vào chỗ bại tuyệt không vong, còn cái Thái Tuế ở lưu niên hội với Địa Không, Địa Kiếp chủ về tai họa không phát tài.

Vận suy hãm suy, ưa Tử Vi giải hung ác:

Như Đại, tiểu hạn không gặp cát tinh còn có cung Thân, Mệnh có Tử Vi củng chiếu thì hạn tuy hung hiểm nhưng không đáng lo.

Cô bần thì thọ cao, phú quý thì yểu thọ:

Như sao chủ về Mệnh yếu, với sao chủ về cung Tài Bạch, Quan Lộc, Tử Nữ tại hãm địa sẽ giảm thọ. Nếu như Thái Tuế tại Mệnh, chủ tinh lại yếu, hoặc cung Tài Bạch, Quan Lộc, Thiên Di hóa cát hoặc hạn hành đến cát tinh chủ về phát tài nhanh nhưng không quá mười năm, qua vận 20 năm sẽ mất.

Điếu Khách, Tang Môn là Lục Châu nhảy lầu tự vẫn:

Đại, tiểu hạn trước gặp Tang Môn, sau có Điếu Khách với Thái Tuế gặp hung tinh nguy hiểm muôn trùng là vậy.

Quan Phù, Thái Tuế khiến Công Dã vướng vào vòng tù tội:

Hai sao này tọa thủ ở cung Thân, Mệnh, Đại, tiểu hạn lại gặp Sát Tinh, Quan Phù đều ứng với câu nói trên.

Hạn đến Thiên La, Địa Võng, Khuất Nguyên nhảy sông tự vẫn:

Đại, tiểu hạn đến hai cung Thìn, Tuất gặp Vũ Khúc, Tham Lang càng có Thái Tuế, Điếu Khách, Tang Môn, Bạch Hổ với Địa Kiếp, Địa Không, Tứ Sát chủ về bần khốn cùng cực.

Văn Xương, Văn Khúc hội với Liêm Trinh, yểu Mệnh:

Tức an Mệnh tại hai cung Tỵ, Hợi có các sao này hội hợp là cách cục như vậy. Cách cục này tối kỵ với người sinh năm Tân. Nếu như Vũ Khúc, Thiên Tướng tọa ở đúng cung thì ngược lại sẽ sang trọng và có quyền.

Mệnh Không, hạn Không, không có cát tinh soi chiếu đường công danh gặp trắc trở:

Mệnh hạn không có chính tinh soi chiếu, lại thêm Sát thì đường công danh không có thành tựu hoặc nếu có chính tinh hóa cát gặp Địa Không, Địa Kiếp ở Mệnh, hạn thì cũng chủ về vất vả không được thành đạt.

Sinh gặp Địa Không, giống như nửa đường đứt gánh:

Cung Mệnh có Địa Không tọa thủ, là người bình thường. Đặc biệt đến tuổi trung niên sẽ phá gia bại sản. Nếu phát tài nhanh chóng, như người sinh giờ Tý có Mệnh đóng tại Hợi, người sinh giờ Ngọ có Mệnh đóng tại Tỵ là cách Cục như vậy.

Trong Mệnh gặp Địa Kiếp, khác gì chèo thuyền ngoài biển cả sóng dữ:

Cung Mệnh gặp Địa Kiếp tọa thủ, là mệnh vận bình thường, cũng không có tiền của. Nếu như thêm Sát, Kỵ thì rất xấu.

Hạng Vũ anh hùng, hạn đến Địa Không mà mất nước

Đại, tiểu hạn nếu gặp Địa Không thì cũng vậy

Thạch Sùng hào phú, hành hạn đến Địa Kiếp mà mất nhà

Đại, tiểu hạn lâm vào chỗ hãm địa, lại gặp Đà La ở lưu niên thì chủ hung hiểm

Lã Hậu chuyên quyền, lưỡng trọng Thiên Lộc, Thiên Mã

Lộc Tồn lại gặp Hóa Lộc với Thiên Mã cùng tọa thủ ở cung Mệnh là vậy

Dương Phi hiếu sắc là cách cục tam hợp với Văn Xương, Văn Khúc hội

Cung Mệnh với cung Tài Bạch, Quan Lộc, Thiên Di có Văn Xương, Văn Khúc chiếu, lại hội với Thái Âm, Thiên Cơ, chủ về dâm dật.

Thiên Lương gặp Thiên Mã, mệnh nữ hạ tiện mà còn dâm dật:

Mệnh nữ nếu như ở 4 cung Dần, Thân, Tỵ, Hợi mà gặp Thiên Mã tọa thủ, còn tam phương có Thiên Lương hợp chiếu thì có cách cục như vậy.

Văn Xương, Văn Khúc kẹp đan trì, quế trì là cách cục mệnh nam quý hiển:

Thái Dương là Đan Trì (thềm son), Thái Âm là Quế Trì (thềm quế), tức Thái Dương, Thái Âm tọa ở cung Mệnh tại Sửu, Mùi, còn trước sau 2 cung có Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc đến kẹp là cách cục này.

Tử Vi tọa ở Mão, Dậu đa phần xuất gia tu đạo:

Tử Vi là Bắc Cực, lại tọa thủ ở cung Mệnh, thêm sát xuất gia tu đạo; không có sát thêm cát hóa, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt chủ về quý.

Liêm Trinh tọa ở Mão, Dậu nhất định làm nha lại văn thư:

An Mệnh tại Mão, Dậu có Liêm Trinh tọa thủ, thêm sát tinh làm bộ dịch ở công môn.

Tả Phù, Thiên Phủ đồng cung, chủ làm quan lớn:

An Mệnh tại 2 cung Thìn, Tuất, có 2 sao này tọa thủ, lại hội hợp với cát hóa Tam Phương xung chiếu, là quý cực phẩm.

Liêm Trinh, Thất Sát là cách cục phiêu bạt khắp nơi:

An Mệnh tại 2 cung Tỵ, Hợi, có 2 sao này tọa thủ, thêm Sát, Hóa Kỵ, gặp Địa Không, Địa Kiếp chủ phiêu bạt, lênh đênh, không được ở trong nhà, phải kiếm sống gian khổ bên ngoài.

Đặng Thông chết đói là hạn gặp phải cung của Đại Hao:

An Mệnh tại cung Tý, đại, tiểu hạn hành đến chỗ kẹp hạn gặp Đại Hao, hội với Ác Tinh nên có cách cục đó.

Phu Tử tuyệt lương tại Trần là cách cục hạn gặp Thiên Lương gây hại:

Cũng phán đoán giống như ở trên.

Linh Tinh, Văn Xương, Đà La, Vũ Khúc, hạn gặp tai họa liên quan đến nước:

4 sao này giao hội ở 2 cung là Thìn, Tuất, người sinh năm Tân, Nhâm, Kỷ, đại, tiểu hạn hành đến Thìn, Tuất gặp tai họa liên quan đến nước. Lại thêm ác, sát gặp biến cố trên đường đi. Nếu như 4 sao này tọa ở cung Mệnh tại Thìn, Tuất thì cũng như vậy.

Cự Môn, Hỏa Tinh, Dương Nhẫn, vận mệnh khó dài lâu:

3 sao này tọa ở cung Thân, Mệnh, đại, tiểu hạn lại gặp Ác Sát xung phá thì không tốt, dựa vào đó mà phán đoán.

Gặp Địa Không, nếu không phiêu bạt thì cũng chủ về bần khổ:

Tức cung Mệnh không thấy chính tinh, chỉ có một mình sao Địa Không tọa thủ, lại tam hợp với sát hóa cát, phán đoán dựa vào tính chất của sao. Thêm cát tinh thì không phán đoán như vậy.

Xông pha nơi chiến trận, không yểu mệnh thì cũng có hình thương:

Dương Nhẫn thủ Mệnh tại cung Ngọ, tiếp theo tại cung Mão, Dậu lạc hãm nên có cách cục như vậy. 4 cung Dần, Thân, Ty, Hợi có Đà La thủ Mệnh cũng giống như vậy. Còn người sinh năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì không kỵ.

Phá Quân tọa ở Tý, Ngọ chủ thăng quan tiến tài:

2 cung Tý, Ngọ có Phá Quân thủ Mệnh, thêm cát tinh sẽ làm quan đến vị trí tam công.

Văn Xương, Tham Lang tọa ở Mệnh là cách cục khó bình yên:

Mệnh nữ mà 2 cung Tỵ, Hợi có 2 sao này tọa thủ, thêm sát, hóa kỵ sẽ yểu thọ, hoặc cung Quan Lộc gặp 2 sao này cũng luận như vậy.

Triều Đẩu ngưỡng đẩu là cách cục tước lộc vinh xương:

Thất Sát thủ Mệnh tại cung vượng, nếu như Tý, Ngọ, Dần, Thân là triểu đẩu, Tam phương là ngưỡng đẩu, hợp cách chủ về phú quý. Nếu như cung Thiên Di, Quan Lộc có cách cục này thì không luận như thế.

Văn Quế, Văn Hoa, cửu trùng hiển quý:

Văn Xương là Văn Quế, Văn Khúc là Văn Hoa, nếu như 2 sao này an ở cung Mệnh tại Sửu, Mùi lại hóa cát và được các cát tinh kẹp thì có cách cục như vậy. Nếu năm không hóa cát thì có Văn Xương, Văn Khúc cũng vô dụng thậm chí còn yểu thọ.

Đan Trì, Quế Trì sớm được đắc trí:

Đan Trì tức Thái Dương tọa ở cung Mão, Thìn, Tỵ, Quế Trì tức là Thái Âm nhập cung Dậu, Tuất, Hợi. Cung Thân, Mệnh đóng tại năm cung đó chính là cách cục này. Nên gặp Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt sẽ hợp cách.

Hợp Lộc, Củng Lộc có quyền cao chức trọng:

Lộc Tồn với Hóa Lộc tọa tại các cung Tài Bạch, Quan Lộc hợp Mệnh hoặc Lộc Tồn tọa Mệnh còn cung Thiên Di có Hóa Lộc củng chiếu đều chủ về phú quý. Ca quyết viết: "Hợp Lộc, Củng Lộc thôi kim ngọc có tước vị cao".

Thái Âm, Thái Dương hợp với Văn Xương, Văn Khúc vinh hoa xuất thế:

Thái Dương, Thái Âm tọa Mệnh có Văn Xương, Văn Khúc ở cung Tài Bạch, Quan Lộc đến hội hoặc Văn Xương, Văn Khúc tọa ở Mệnh còn Thái Âm, Thái Dương tọa ở cung Tài Bạch, Quan Lộc đến hội lại gặp Thiên Khôi, Thiên Việt thì càng phú quý.

Tài Bạch, Quan Lộc gặp sao Tả Phù, Hữu Bật là cách cục áo gấm vinh quy:

Tức là cung Mệnh, Thân có Chính Tinh hóa cát qua Tam Phương ở cung Tài Bạch, Quan Lộc có Tả Phù, Hữu Bật đến chầu.

Cự Môn, Thiên Lương hội với Liêm Trinh đồng thời hợp với Lộc Tồn là cách cục tình cảm vợ chồng gắn bó hòa hợp đến cuối đời:

4 sao Cự Môn, Thiên Lương, Tham Lang, Liêm Trinh tam hợp ở cung Thân, Mệnh chỗ miếu địa lại có cát tinh như: Lộc Tồn, Hóa Lộc tọa ở cung Phu Thê có Lộc Tồn đến hợp cũng chủ về phú quý.

Vũ Khúc là cung nhàn là người có nhiều tài nghệ, có Tham Lang ở hãm địa làm nghề đồ tể:

Vũ Khúc thủ Mệnh ở cung Tỵ, Hợi thêm Sát là người dựa vào tài năng của bản thân lập nghiệp an Thân. Tham Lang tọa tại Ty, thêm Sát Tinh tọa tại Hợi chủ yểu thọ.

Thiên Lộc triều viên, vinh hoa quý hiển:

Người sinh năm Giáp lập Mệnh tại cung Dần, Giáp Lộc đến Dần thủ Mệnh, cũng là cách cục Thiên Lộc Triều Viên. Hay như Canh Lộc tọa ở cung Thân, Ất Lộc tọa ở cung Mão, Tân Lộc tọa ở cung Dậu. 4 cung vị trên đều là Lộc Tồn thủ Mệnh nhưng Mệnh tọa ở cung Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ gặp sao Lộc Tồn không phải là cách cục Thiên Lộc Triều Viên.

Sao Thiên Khôi lâm Mệnh làm quan đến vị trí Tam Thai:

Tức là an Mệnh tại cung Ngọ có Tử Vi tọa thủ gặp Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt đồng cung người sinh năm Bính là quý cách.

Vũ Khúc tọa tại Tuất, Hợi kỵ nhất là có Thái Âm gặp Tham Lang:

Vũ Khúc thủ Mệnh tại Tuất, Hợi, Tam Phương có Thái Âm, Tham Lang, Hóa Kỵ thêm Sát là không tốt, chủ về lúc trẻ vận mệnh bất lợi. Hoặc có Tham Lang, Hỏa Tinh xung phá chủ về sang trọng, người sinh năm Giáp, Kỷ là hợp cách.

Hóa Lộc vẫn là tốt, Tứ Mộ chớ ẩn tàng:

Tức Văn Khúc, Thái Âm, Tham Lang, Hóa Lộc thủ chiếu cung Mệnh, nếu thêm cát tinh cũng phú quý nhưng có 4 cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi tuy có hóa cát cũng vô dụng.

Cự Môn tọa ở cung Tý, Ngọ là cách cục Ngọc ẩn trong đá:

An Mệnh tại 2 cung Tý, Ngọ có Cự Môn tọa thủ càng được Hóa Khoa, Hóa Lộc ở cung Dần, Thân, Tuất, Thìn hợp chiếu thì sẽ được giầu sang.

Minh Lộc, Ám Lộc là cách cục gấm thêm hoa:

Như người sinh năm Giáp lập Mệnh tại cung Hợi có Hóa Lộc tọa thủ lại được Lộc Tồn ở Dần đến hội hợp, trường hợp này luận tương tự như trên.

Tử Vi tọa tại Thìn, Tuất gặp Phá Quân giầu mà không sang, chỉ có hư danh:

An Mệnh tại 2 cung Thìn, Tuất gặp sao Tử Vi, Phá Quân tại hãm địa thì không quý nhưng có phát tài xong cũng chỉ là hư không thực.

Văn Xương, Văn Khúc hội với Phá Quân là có hình khắc vất vả:

Phá Quân tọa tại Mệnh tại cung Mão, Dậu, Thìn, Tuất tuy được Văn Xương, Văn Khúc chiếu cũng không được vẹn toàn, nếu như thêm Sát, Hóa Kỵ thì càng bần hàn khốn khó.

Tham Lang, Vũ Khúc tọa ở cung Tứ Mộ, 30 tuổi mới phát phúc:

Hai sao thủ Mệnh tại cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi chủ về vận thiếu niên bất lợi nếu thêm Hóa Kỵ thì sẽ yểu thọ. Trong ca quyết có viết rằng: "Tham Lang, Vũ Khúc thiếu niên không phát vận quá 30 tuổi mới diên thọ".

Thiên Đồng tọa ở cung Tuất là bị phản bội, người sinh năm Đinh có hóa cát chủ về đại quý:

Về cơ bản Thiên Đồng tọa ở cung Tuất tại hãm nếu gặp người sinh năm Đinh có cung Mệnh đóng tại cung Dần, Ngọ có Lộc Tồn, Hóa Lộc tọa ở Dần thì hóa cát xung chiếu xuất gia tu Đạo chủ về đại quý. Thiên Tướng cũng vậy nếu như thêm Sát thì là hạ cục.

Cự Môn tọa tại cung Thìn, Tuất là hãm địa người sinh năm Tân hóa cát có lộc dồi dào:

Cự Môn tọa Mệnh tại cung Thìn, Tuất hãm địa ví dụ như người sinh năm Tân thì Cự Môn, Hóa Lộc tại Thìn là Lộc ám hợp tại Dậu, tại Tuất thì Lộc ở Dậu kẹp Mệnh chủ về phú quý, còn nếu thêm Sát thì không đoán như vậy.

Thiên Cơ, Thiên Lương tọa tại cung Dậu hóa cát cung Tài Bạch, Quan Lộc gặp sao này không vinh hiển:

Thiên Cơ, Thiên Lương tọa Mệnh tại cung Dậu là hãm địa tuy có hóa cát cũng vô dụng. Nếu gặp Cự Môn thì cũng tương tự như vậy.

Thái Dương, Thái Âm kỵ nhất là phản bối đó là mất đi độ sáng:

Thái Dương tọa ở Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý. Thái Âm tọa ở cung Dần, Mão, Thìn, Tỵ thì Nhật, Nguyệt không phát sáng như thế nào tuy có Thái Dương, Thái Âm phản bối mà được hưởng nhiều phú quý phải xem tam hợp ở bản cung có cát tinh củng chiếu không thêm Hóa Quyền là cách cục này, cho nên tiên sinh Ngọc Thiềm cho rằng bàn luận trong đẩu số rất tinh vi, phương pháp đoán Mệnh phải biến hóa linh hoạt.

Thân, Mệnh nhất định phải xem xét kỹ, tối kỵ có sai lầm:

Muốn an Thân, Mệnh trước tiên phải xem giờ khắc nếu chính xác thì rất ứng nghiệm sau khi định Mệnh, Thân thì xem trạng thái Sinh, Vượng, Tử, Tuyệt ở bản cung như thế nào sau đó mới dựa vào bản chất của các sao mà suy đoán.

Tích đức nhiều năm tăng trăm phúc, dù tọa ở hãm địa cũng chẳng tổn thương:

Thân, Mệnh tuy có sao yếu với hành hạn yếu, nhưng vẫn được hưởng phúc thọ, may mắn, tiền bạc, quan tước được như ý, ấy là nhờ vào phúc ấm của tổ tiên cùng với phúc đức của bản thân tích lũy từ những việc hành thiện.

Mệnh thực vận kiên cố, như ruộng hạn gặp mưa, Mệnh suy hạn yếu như cỏ cây non gặp sương:

Mệnh tọa tại hãm địa, Tứ Chính có cát tinh chiếu cũng gọi là Phúc. Hay không sinh ở hãm địa, vận gặp Ác Sát chủ về tai họa nếu vận chắc chắn Mệnh tốt thì cát lợi.

Luận Mệnh thì phải xem thiện ác của sao tính chất của Cự Môn, Phá Quân, Dương Nhẫn rất mạnh mẽ:

3 sao này thủ Mệnh nếu tọa ở hãm địa không những tính cách mạnh mẽ mà còn chuốc lấy tranh chấp thị phi, thêm Sát Tinh có thương tàn phá bại.

Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương tính cách ôn hòa, ổn định, Hỏa Tinh, Địa Kiếp, Địa Không tính cách bất thường:

Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Đồng, Thiên Lương đều thuộc chòm sao Nam Đẩu khi đóng ở Thân, Mệnh chủ về người có tính cách trung hòa. Nếu như Tham Lang gặp Hỏa Tinh sẽ được phú quý nhưng gặp Địa Không, Địa Kiếp thì lại không phán đoán như vậy.

Văn Xương, Văn Khúc, Lộc Tồn, Thiên Cơ chủ về người thanh tú, khéo léo. Thái Dương, Thái Âm, Tả Phù, Hữu Bật là người hiền từ:

Văn Xương, Văn Khúc, Lộc Tồn, Thiên Cơ thủ ở Mệnh không gặp Sát Tinh chủ về người tài hoa lỗi lạc, thông minh xinh đẹp giầu sang, còn có Thái Âm, Thái Dương, Tả Phù, Hữu Bật tọa tại Mệnh không gặp Sát Tinh chủ về người thanh cao đôn hậu, độ lượng cũng giầu sang.

Vũ Khúc, Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang xung hợp vinh hiển dài lâu. Dương Nhẫn, Đà La hội hợp sẽ tổn hại lẫn nhau:

Thân, Mệnh tam hợp với Vũ Khúc, Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang thủ chiếu càng được cát hóa thì sẽ được giầu sang. Phải biết là được Tử Vi có thể hàng được uy quyền của Thất Sát có thể chế hóa được Dương Nhẫn, Đà La cho nên Tử Vi cùng tọa ở cung Mệnh thì rất tốt nếu lại xung hợp thì cũng được nhưng Thất Sát, Dương Nhẫn, Linh Tinh chung quy không phải là sao mang đến điều tốt lành, đến già vẫn không được sống bình yên.

Tham Lang, Liêm Trinh, Phá Quân là sao Ác. Thất Sát, Dương Nhẫn, Đà La là sao Hung:

Cung Thân, Mệnh tam hợp có 6 sao này thủ chiếu lại gặp Hóa Kỵ, không thấy cát tinh chắc chắn chủ về dâm tà, phá hoại thương tàn hình khắc. Nếu như nhập miếu hóa cát thì cũng phán đoán tương tự như vậy.

Hỏa Tinh, Linh Tinh chuyên đi gây họa, Địa Không, Địa Không, Thiên Thương, Thiên Sứ họa hại trùng phùng:

Đại, tiểu hạn gặp những hung tinh này chắc chắn chủ về tai họa đa đoan, nếu như cung Thân, Mệnh gặp cát tinh thì Hỏa Tinh, Linh Tinh vô hại còn Địa Không, Địa Kiếp không bị ảnh hưởng.

Cự Môn, Kỵ Tinh đều không tốt lành, cung Thân, Mệnh hạn rất kỵ gặp hai sao này:

Cự Môn, Kỵ Tinh là thần quản đa sự, khi tọa ở trong 12 cung, cung Thân, Mệnh, Đại, tiểu hạn gặp được đều chủ về không tốt lành. Huống hồ Cự Môn vốn là cát tinh nếu như ở hãm địa, Hóa Kỵ thì có cát tinh không? Lại gặp Thái Tuế, Quan Phù đến có tranh chấp thị phi không ngừng. Thái Tuế, Quan Phù vốn là thân chủ về kiện tụng, huống hồ Cự Môn là sao chủ về thị phi lại có thêm Hóa Kỵ thì không thể tránh khỏi có kiện tụng tranh chấp.

Điều Khách lại gặp Tang Môn gặp tai họa, bệnh tật liên miên:

Điếu Khách, Tang Môn với chủ về hình khắc tang ma, nếu không gặp Thất Sát, Thiên Hình, Thiên Nhẫn thì có thể tránh được nhưng tai họa bệnh tật thì rất khó tránh, huống hồ Kỵ Tinh chủ về sinh tật.

Thất Sát thủ cung Thân chủ một đời yểu thọ, nghèo khổ, người có sao Tham Lang nhập Mệnh làm kỹ nữ:

Thất Sát thủ ở cung Thân, Mệnh tại hãm địa thì càng hung họa và ứng với câu nói trên. Nếu như Tham Lang tọa thủ ở Mệnh tuy không gặp Sát Tinh hoặc tại tam hợp thủ chiếu cũng chủ về dâm dật. Nếu như gặp Thất Sát tại hãm địa chủ về nam phóng đãng, nữ dâm loạn. Trong Bí Kinh có viết rằng: "Tham Lang tam hợp xung chiếu cũng là phường lả lơi đa tình".

Tâm thiện Mệnh suy cũng chủ thọ, tâm độc Mệnh bền cũng yểu vong:

Câu trước là chỉ về tích Đức như đã luận ở trên, câu sau và câu trước có ý nghĩa trái ngược nhau. Ví dụ như: Gia Cát Khổng Minh dùng lửa thiêu chết quân Đằng Giáp nên bị giảm bớt mấy năm tuổi thọ.

Ngày nay dù Mệnh cực sang quý, vận hết cũng đâu được dài lâu. Trong số đó bao gồm rất nhiều ý nghĩa, người học nên xem cho tường tận, tỉ mỉ.

Theo: Thiệu Khang Tiết

Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ