By Tử Vi Chân Cơ| 18:06 23/11/2025|
Bài Viết Sưu Tầm

Giải Nghĩa Về Sử Dụng Lục Tứ

A. Sử dụng Tứ:

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Sửu [Hóa Lộc] nhập Mão, gặp Mão [tự Hóa Lộc], thì [Hóa Lộc] này sẽ thoái hồi về Sửu (cung phát xạ ban đầu).

Ví dụ: Cung Điền Trạch ở Sửu, Hóa Lộc nhập cung Nô Bộc ở Mão, gặp Nô Bộc tự Hóa Lộc, thì Hóa Lộc thoái hồi về Điền Trạch ở Sửu.
Do đó, Điền Trạch tọa [Hóa Lộc]. Hóa tượng này hình thành cách giải thích là [can Điền Trạch tự Hóa Lộc].

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Sửu [Hóa Kỵ] nhập Mão, gặp Mão [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] này sẽ thoái hồi về Sửu (cung phát xạ ban đầu) [Tiến Mã Kỵ].

Ví dụ: Cung Điền Trạch ở Sửu, [Hóa Kỵ] nhập cung Nô Bộc ở Mão, gặp Nô Bộc [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] thoái hồi về Điền Trạch ở Sửu.
Do đó, Điền Trạch tọa [Hóa Kỵ]. [Tiến Mã Kỵ] này hình thành cách giải thích là [can Điền Trạch tự Hóa Kỵ].

Các cung Tý và Dần có can cung tất yếu giống nhau.
Nếu can cung Tý [Hóa Lộc] nhập Dần, gặp Dần [tự Hóa Lộc], thì [Hóa Lộc] này sẽ thoái hồi về Tý (cung phát xạ ban đầu) [Tiến Mã Lộc].

Ví dụ: Cung Mệnh ở Tý, Hóa Lộc nhập cung Phúc Đức ở Dần, gặp Phúc Đức tự Hóa Lộc, thì Hóa Lộc thoái hồi về cung Mệnh ở Tý.
Do đó, cung Mệnh tọa [Hóa Lộc] [Tiến Mã Lộc]. [Tiến Mã Lộc] này hình thành cách giải thích là [cung Mệnh tự Hóa Lộc].

Ví dụ: Cung Điền Trạch ở Tý, Hóa Lộc nhập cung Nô Bộc ở Dần, gặp Nô Bộc tự Hóa Lộc, thì Hóa Lộc thoái hồi về Điền Trạch ở Tý.
Do đó, Điền Trạch tọa [Hóa Lộc]. [Tiến Mã Lộc] này hình thành cách giải thích là [can Điền Trạch tự Hóa Lộc].

Và Điền Trạch (Nhâm Tý) can Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kỵ nhập bản cung Nô Bộc (Nhâm Dần), gặp Vũ Khúc Sinh Kỵ và tự Hóa Kỵ.
Cấu thành [Tiến Mã Kỵ]. Kỵ này thoái hồi về Điền Trạch (Nhâm Tý), hình thành bản cung Điền Trạch tự Hóa Kỵ xung bản cung Tử Nữ. Điền Trạch tự Hóa Kỵ, nếu vận hạn gặp phải thì sẽ có nguy cơ chết.

Nếu đại hạn thứ sáu (55-64 tuổi) mà lưu niên 55 đi vào bản cung Điền Trạch (Nhâm Tý) thì e rằng có kiếp nạn.

B. Sử dụng Lục:

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Mão [Hóa Lộc] nhập Sửu, gặp Sửu [tự Hóa Lộc], thì [Hóa Lộc] này sẽ thoái hồi hai cung, đi vào Hợi. Do đó, Hợi tọa [Hóa Lộc].

Ví dụ: Phúc Đức ở Mão, Hóa Lộc nhập cung Mệnh ở Sửu, gặp cung Mệnh tự Hóa Lộc, thì [Hóa Lộc] này thoái hồi hai cung, đi vào Phu Thê ở Hợi.
Do đó, Phu Thê tọa [Hóa Lộc]. [Thoái Mã Lộc] hình thành cách giải thích là [can Phúc Đức Hóa Lộc nhập Phu Thê].

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Mão [Hóa Kỵ] nhập Sửu, gặp Sửu [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] này sẽ thoái hồi hai cung, đi vào Hợi. Do đó, Hợi tọa [Hóa Kỵ].

Ví dụ: Cung Huynh Đệ ở Mão, [Hóa Kỵ] nhập cung Tử Nữ ở Sửu, gặp Tử Nữ [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] này thoái hồi hai cung, đi vào Tật Ách ở Hợi.
Do đó, Tật Ách tọa [Hóa Kỵ]. [Thoái Mã Kỵ] hình thành cách giải thích là [can Huynh Đệ Hóa Kỵ nhập Tật Ách].

C. Sử dụng Lục Tứ:

Mệnh can Thái Âm Hóa Kỵ nhập Phu Thê (Ất Sửu), gặp Thái Âm Sinh Quyền và tự Hóa Kỵ. Song Kỵ xung bản cung Quan Lộc (Kỷ Mùi), biểu thị hình tượng sự nghiệp không thuận lợi.

Mệnh can Ất, Thái Âm Hóa Kỵ nhập bản cung Phu Thê, gặp Thái Âm tự Hóa Kỵ. Kỵ này là [Thoái Mã Kỵ], Thái Âm Hóa Kỵ này thoái hồi vào bản cung Tài Bạch (Quý Hợi). Hóa tượng này nên được giải thích là [Mệnh can Hóa Kỵ nhập bản cung Tài Bạch] (Kỵ này đi qua bản cung Phu Thê làm trung gian).

Phu Thê can Ất, Thiên Cơ Hóa Lộc nhập bản cung Mệnh, gặp Thiên Cơ tự Hóa Lộc. Thiên Cơ Hóa Lộc này là [Thoái Mã Lộc], thoái hồi về bản cung Phu Thê (cung phát xạ ban đầu).

Hóa tượng này hình thành không phải là Mệnh cung tự Hóa Lộc, mà nên được giải thích là [can Phu Thê Hóa Lộc nhập bản cung Phu Thê].

Tổng hợp các hóa tượng (Mệnh can Hóa Lộc nhập Phu Thê, chiếu Quan Lộc; còn Mệnh can Hóa Kỵ nhập Tài Bạch, xung Phúc Đức), biểu thị Mệnh chủ coi trọng tiền bạc và cá tính kiếm tiền bất chấp đúng sai.

Mệnh can Kỵ nhập Tài Bạch xung Phúc Đức thì tạo ra quả báo tổn hại phúc.

Nếu đại hạn Mệnh cung đi vào bản cung Phúc Đức (Đinh Tỵ), đại hạn Mệnh bị Hóa Kỵ của can bản Mệnh xung, định sẵn đại hạn này có điềm hung (khởi đầu của sự biến hóa).

[Thoái Mã Kỵ]: Thái Âm Hóa Kỵ này thoái hồi vào bản cung Tài Bạch (Quý Hợi).

[Kỵ chuyển Lộc] (tiếp tục hóa để tìm ra hướng của điềm hung): Can Quý, Phá Quân Hóa Lộc nhập bản cung Tật Ách (Nhâm Tuất).

[Kỵ chuyển Kỵ]: Can Quý, Tham Lang Hóa Kỵ nhập bản cung Huynh Đệ (Giáp Dần) . (Hoạt động bên ngoài của bạn bè).

Hai hóa tượng này chỉ ra rằng điềm hung xuất phát từ thân thể (tâm lý), bộc phát nhất thời, bất bình, ra mặt giúp đỡ người khác, cùng bạn bè gây ra hành vi báo thù.

(Xem kết cục của sao Kỵ sau ba lần hóa nhập vào cung vị nào?):

Can Quý, Tham Lang Hóa Kỵ nhập bản cung Huynh Đệ (Giáp Dần) , là cung vị khí số của thân thể. Kỵ nhập, vận trình thân thể kém.

Thì [Kỵ chuyển Kỵ] can Giáp chuyển Thái Dương Hóa Kỵ nhập bản cung Phu Thê xung bản cung Quan Lộc.

Giải thích: Thái Dương Hóa Kỵ mất ánh sáng (danh tiếng), tổn hại tiền đồ (vì xung bản cung Quan Lộc).

Sử dụng Lục:

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Mão [Hóa Lộc] nhập Sửu, gặp Sửu [tự Hóa Lộc], thì [Hóa Lộc] này sẽ thoái hồi hai cung, đi vào Hợi. Do đó, Hợi tọa [Hóa Lộc].

Ví dụ: Phúc Đức ở Mão, Hóa Lộc nhập cung Mệnh ở Sửu, gặp cung Mệnh tự Hóa Lộc, thì [Hóa Lộc] này thoái hồi hai cung, đi vào Phu Thê ở Hợi.
Do đó, Phu Thê tọa [Hóa Lộc]. [Thoái Mã Lộc] hình thành cách giải thích là [can Phúc Đức Hóa Lộc nhập Phu Thê].

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Mão [Hóa Kỵ] nhập Sửu, gặp Sửu [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] này sẽ thoái hồi hai cung, đi vào Hợi. Do đó, Hợi tọa [Hóa Kỵ].

Ví dụ: Cung Huynh Đệ ở Mão, [Hóa Kỵ] nhập cung Tử Nữ ở Sửu, gặp Tử Nữ [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] này thoái hồi hai cung, đi vào Tật Ách ở Hợi.
Do đó, Tật Ách tọa [Hóa Kỵ]. [Thoái Mã Kỵ] hình thành cách giải thích là [can Huynh Đệ Hóa Kỵ nhập Tật Ách].

Sử dụng Lục Tứ:

Mệnh can Thái Âm Hóa Kỵ nhập Phu Thê (Ất Sửu), gặp Thái Âm Sinh Quyền và tự Hóa Kỵ. Song Kỵ xung bản cung Quan Lộc (Kỷ Mùi), biểu thị hình tượng sự nghiệp không thuận lợi.

Mệnh can Ất, Thái Âm Hóa Kỵ nhập bản cung Phu Thê, gặp Thái Âm tự Hóa Kỵ. Kỵ này là [Thoái Mã Kỵ], Thái Âm Hóa Kỵ này thoái hồi vào bản cung Tài Bạch (Quý Hợi).
Hóa tượng này nên được giải thích là [Mệnh can Hóa Kỵ nhập bản cung Tài Bạch] (Kỵ này đi qua bản cung Phu Thê làm trung gian).

Phu Thê can Ất, Thiên Cơ Hóa Lộc nhập bản cung Mệnh, gặp Thiên Cơ tự Hóa Lộc. Thiên Cơ Hóa Lộc này là [Thoái Mã Lộc], thoái hồi về bản cung Phu Thê (cung phát xạ ban đầu).

Hóa tượng này hình thành không phải là Mệnh cung tự Hóa Lộc, mà nên được giải thích là [can Phu Thê Hóa Lộc nhập bản cung Phu Thê].

Tổng hợp các hóa tượng (Mệnh can Hóa Lộc nhập Phu Thê, chiếu Quan Lộc; còn Mệnh can Hóa Kỵ nhập Tài Bạch, xung Phúc Đức), biểu thị Mệnh chủ coi trọng tiền bạc và cá tính kiếm tiền bất chấp đúng sai.

Mệnh can Kỵ nhập Tài Bạch xung Phúc Đức thì tạo ra quả báo tổn hại phúc.

Nếu đại hạn Mệnh cung đi vào bản cung Phúc Đức (Đinh Tỵ), đại hạn Mệnh bị Hóa Kỵ của can bản Mệnh xung, định sẵn đại hạn này có điềm hung (khởi đầu của sự biến hóa).

[Thoái Mã Kỵ]: Thái Âm Hóa Kỵ này thoái hồi vào bản cung Tài Bạch (Quý Hợi).

[Kỵ chuyển Lộc] (tiếp tục hóa để tìm ra hướng của điềm hung): Can Quý, Phá Quân Hóa Lộc nhập bản cung Tật Ách (Nhâm Tuất).

[Kỵ chuyển Kỵ]: Can Quý, Tham Lang Hóa Kỵ nhập bản cung Huynh Đệ (Giáp Dần) . (Hoạt động bên ngoài của bạn bè).

Hai hóa tượng này chỉ ra rằng điềm hung xuất phát từ thân thể (tâm lý), bộc phát nhất thời, bất bình, ra mặt giúp đỡ người khác, cùng bạn bè gây ra hành vi báo thù.

(Xem kết cục của sao Kỵ sau ba lần hóa nhập vào cung vị nào).

Can Quý, Tham Lang Hóa Kỵ nhập bản cung Huynh Đệ (Giáp Dần) , là cung vị khí số của thân thể. Kỵ nhập, vận trình thân thể kém.

Thì [Kỵ chuyển Kỵ] can Giáp chuyển Thái Dương Hóa Kỵ nhập bản cung Phu Thê xung bản cung Quan Lộc.

Giải thích: Thái Dương Hóa Kỵ mất ánh sáng (danh tiếng), tổn hại tiền đồ (vì xung bản cung Quan Lộc).

Ngược dòng, đại hạn thứ tư (35-44 tuổi) đi vào [bản cung Tử Nữ] (Mậu Thìn)

[Đại hạn Mệnh] can Mậu, Tham Lang Hóa Lộc nhập [bản Nô Bộc] (Đại hạn Tài Bạch), Thái Âm Hóa Quyền nhập [bản Quan Lộc] (Ất Hợi) (gặp Thái Âm tự Hóa Kỵ).

[Bản cung Tài Bạch] (Đinh Mão), can Đinh của Tài Bạch, Thiên Đồng Hóa Quyền, Cự Môn Hóa Kỵ nhập [bản cung Thiên Di].

Nhưng vì [bản cung Thiên Di] có Thiên Đồng tự Hóa Quyền, Cự Môn tự Hóa Kỵ, nên Hóa Quyền, Hóa Kỵ của can Tài Bạch không thể nhập vào.

Quyền, Kỵ này bị đẩy đến [cung Quan Lộc] (Ất Hợi), nhưng [cung Quan Lộc] (Ất Hợi) có Thái Âm tự Hóa Kỵ.

Quyền, Kỵ lại một lần nữa bị đẩy đến [Phúc Đức] (Quý Dậu). Hóa Quyền của can Tài Bạch bị buộc phải chuyển đến [bản cung Phúc Đức] tự chiếu.

Lưu niên Giáp Tuất, Mệnh chủ đột nhiên có một khoản tiền tài không rõ nguồn gốc.

(Nhưng cần chú ý: lưu niên Giáp Tuất, Thái Dương Hóa Kỵ nhập [bản cung Tài Bạch] (Đại hạn Huynh Đệ) (Lưu niên Nô Bộc) có thể có "huynh đệ, bạn bè cướp tài sản").

Mệnh chủ tốt nhất nên bắt buộc cất giữ tiền này vào kho (mua nhà) (Thái Âm tự Hóa Kỵ, thao tác ngược lại).

Nếu không, khoản tiền này trôi nổi không ổn định, có thể biến mất không dấu vết (như bị cướp, bị mượn không trả, bị vỡ nợ).

Sử dụng Tứ:

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Sửu [Hóa Lộc] nhập Mão, gặp Mão [tự Hóa Lộc], thì [Hóa Lộc] này sẽ thoái hồi về Sửu (cung phát xạ ban đầu).

Ví dụ: Cung Điền Trạch ở Sửu, Hóa Lộc nhập cung Nô Bộc ở Mão, gặp Nô Bộc tự Hóa Lộc, thì Hóa Lộc thoái hồi về Điền Trạch ở Sửu.
Do đó, Điền Trạch tọa [Hóa Lộc]. Hóa tượng này hình thành cách giải thích là [can Điền Trạch tự Hóa Lộc].

Các cung Mão và Sửu tất yếu có can cung giống nhau.
Nếu can cung Sửu [Hóa Kỵ] nhập Mão, gặp Mão [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] này sẽ thoái hồi về Sửu (cung phát xạ ban đầu) [Tiến Mã Kỵ].

Ví dụ: Cung Điền Trạch ở Sửu, [Hóa Kỵ] nhập cung Nô Bộc ở Mão, gặp Nô Bộc [tự Hóa Kỵ], thì [Hóa Kỵ] thoái hồi về Điền Trạch ở Sửu.
Do đó, Điền Trạch tọa [Hóa Kỵ]. [Tiến Mã Kỵ] này hình thành cách giải thích là [can Điền Trạch tự Hóa Kỵ].

Các cung Tý và Dần có can cung tất yếu giống nhau.
Nếu can cung Tý [Hóa Lộc] nhập Dần, gặp Dần [tự Hóa Lộc], thì [Hóa Lộc] này sẽ thoái hồi về Tý (cung phát xạ ban đầu).

Ví dụ: Cung Mệnh ở Tý, Hóa Lộc nhập cung Phúc Đức ở Dần, gặp Phúc Đức tự Hóa Lộc, thì Hóa Lộc thoái hồi về cung Mệnh ở Tý.
Do đó, cung Mệnh tọa [Hóa Lộc] [Tiến Mã Lộc]. [Tiến Mã Lộc] này hình thành cách giải thích là [cung Mệnh tự Hóa Lộc].

Ví dụ: Cung Điền Trạch ở Tý, Hóa Lộc nhập cung Nô Bộc ở Dần, gặp Nô Bộc tự Hóa Lộc, thì Hóa Lộc thoái hồi về Điền Trạch ở Tý.
Do đó, Điền Trạch tọa [Hóa Lộc]. [Tiến Mã Lộc] này hình thành cách giải thích là [can Điền Trạch tự Hóa Lộc].

Và Điền Trạch (Nhâm Tý) can Nhâm, Vũ Khúc Hóa Kỵ nhập bản cung Nô Bộc (Nhâm Dần), gặp Vũ Khúc Sinh Kỵ và tự Hóa Kỵ.

Cấu thành [Tiến Mã Kỵ]. Kỵ này thoái hồi về Điền Trạch (Nhâm Tý), hình thành bản cung Điền Trạch tự Hóa Kỵ xung bản cung Tử Nữ. Điền Trạch tự Hóa Kỵ, nếu vận hạn gặp phải thì sẽ có nguy cơ chết.

Nếu đại hạn thứ sáu (55-64 tuổi) mà lưu niên 55 đi vào bản cung Điền Trạch (Nhâm Tý) thì e rằng có kiếp nạn.

Thoái Mã Kỵ:

Phu Thê can Quý, Phá Quân Hóa Lộc nhập [bản Quan Lộc] (Kỷ Dậu). Đây là [Tiết xuất Lộc], là sự tổn thất tự nguyện.

Điều này biểu thị:
Bạn đời tự nguyện cống hiến, giúp đỡ Mệnh chủ phát triển và kinh doanh sự nghiệp. Ngoài ra, biểu thị bạn đời ở bên ngoài [Thiên Di của Phu Thê], Hóa Lộc nhập, nhân duyên tốt, nhiều quý nhân giúp đỡ.

Phu Thê can Quý, Tham Lang Hóa Kỵ nhập [bản Tài Bạch] (Quý Sửu), gặp Vũ Khúc Sinh Kỵ, Tham Lang tự Hóa Kỵ.

Hóa tượng này, khi can Phu Thê Kỵ nhập [Tài Bạch] gặp Sinh Kỵ, tạo thành [Song Kỵ] xung [Phúc Đức], biểu thị bạn đời sẽ kiềm chế chi tiêu của Mệnh chủ, không cho hưởng thụ.

Hoặc nói rằng bạn đời coi trọng tiền bạc.

Nhưng can Tài Bạch Tham Lang tự Hóa Kỵ, hình thành [Thoái Mã Kỵ]. Đây là [Kỵ xuất], cho thấy bạn đời tuy muốn kiềm chế tiền bạc của Mệnh chủ nhưng không quản được.

Tiền bạc vẫn tiếp tục được đầu tư vào kinh doanh sự nghiệp (vì can Tài Bạch Quý, Phá Quân Hóa Lộc nhập Quan Lộc) và chịu tổn thất.

Kỵ của can Phu Thê này thoái về [bản Thiên Di], hình thành [bản Thiên Di tự Hóa Kỵ] xung [bản Mệnh], và gây ra [Quyền Kỵ vướng mắc] trên tuyến Mệnh-Thiên Di.

[Lộc chuyển Lộc]: Quan Lộc can Kỷ, Vũ Khúc Hóa Lộc nhập [bản Tài Bạch]. Quan Lộc can Kỷ, Tham Lang Hóa Quyền nhập [bản Tài Bạch]. Cho thấy Lộc của can Phu Thê đến từ tiền bạc của Mệnh chủ.

[Lộc chuyển Kỵ]: Quan Lộc can Kỷ, Văn Khúc Hóa Kỵ nhập [bản Phúc Đức] xung [bản Tài Bạch]. Cũng cho thấy ý tưởng mở rộng sự nghiệp của bạn đời lại dẫn đến tổn thất tiền bạc.

Quan Lộc can Văn Khúc Hóa Kỵ nhập Phúc Đức, biểu thị ý tưởng (quyết sách) về sự nghiệp có thể khá nhạy cảm, hoặc sơ suất về văn thư, dẫn đến hao tốn tiền bạc.

[Mệnh cung] là một, [cung Phu Thê] là ba (một chứa ba). Cũng có nghĩa là [vợ chồng là một thể].

[Cung Phu Thê] cũng là cung vị để phát triển sự nghiệp ở bên ngoài.

Nếu Phu Thê can Kỵ nhập Tài Bạch xung Phúc Đức, còn Quan Lộc can Kỵ nhập Phúc Đức xung Tài Bạch ([tuyến Tài Phúc] là tuyến đối đãi của vợ chồng).

Hóa tượng này có thể suy đoán đối đãi giữa vợ chồng tất nhiên không tốt.

Nguyên nhân của sự đối đãi không tốt này có liên quan đến việc kinh doanh sự nghiệp thất bại dẫn đến phá sản.

Khi đại hạn đi thuận, đại hạn thứ ba [Đại hạn Mệnh] đi vào [bản Phúc Đức] (Đinh Mùi). [Đại hạn Tài Bạch] ở [bản Phu Thê] (Quý Mão), can Quý, Phá Quân Hóa Lộc nhập [bản Quan Lộc]. Sự nghiệp trong đại hạn này có thể kiếm được tiền.

[Đại hạn Quan Lộc] ở [bản Thiên Di] (Tân Hợi), can Tân, Văn Xương Hóa Kỵ nhập [bản Mệnh]. . Sự nghiệp có hình tượng tổn thất tiền bạc.

Khi đại hạn đi thuận, đại hạn thứ tư (36-45 tuổi) [Đại hạn Mệnh] đi vào [bản Điền Trạch] (Mậu Thân).

[Đại hạn Mệnh] can Mậu, Thiên Cơ Hóa Kỵ nhập [bản Huynh Đệ] (Giáp Thìn) xung phá Thiên Lương Sinh Lộc. Xung phá tất có tai ương.

[Đại hạn Tài Bạch] trùng với [bản Huynh Đệ] (Giáp Thìn). Sinh Lộc trong cung bị xung phá, tất nhiên sẽ tổn thất tiền bạc (phá sản).

[Đại hạn Phu Thê] ở [bản Phụ Mẫu] (Bính Ngọ). Can Bính, Liêm Trinh Hóa Kỵ nhập [bản Quan Lộc] xung [bản Phu Thê]. Dùng cái nhỏ xung cái lớn, e rằng sẽ ly hôn.

Nguồn: Blog Praxisluck
Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ