Khoa Tử Vi "Thần Sầu" Đời Nhà Trần
* Chuyện kể trong sách Đông A Di Sự
* Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư đều là tay Tử Vi giỏi
* Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn được truyền khoa Tử Vi
* Truyện Đoàn Nhữ Hài và số mạng rất lạ
* Các phái Tử Vi ở Việt Nam ngày nay
* Các cao thủ Tử Vi: Nguyễn Mạnh Bảo, Song An Đỗ Văn Lưu, Nguyễn Phát Lộc, Hoàng Quân, Nguyễn Văn Y, Việt Viêm Tử, Vân Đằng Thái Thứ Lang
============================
Giáo sư Trần Quang Đông
KHOA TỬ VI TẠI VIỆT NAM
Khoa Tử Vi truyền sang Việt Nam vào năm Đinh Tị (1257) niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 đời Trần. Quan nhà Tống không chịu lệ thuộc nhà Nguyên sang xin nội thuộc Việt Nam. Trong số này có Hoàng Bính mang 1200 người, tông thuộc theo vua Trần Thái Tôn. Hoàng Bính tiến cử con gái cho vua Trần, được phong là Huệ túc phu nhân. Hoàng Bính có mang theo hai bộ sách Tử Vi rất quý giá, đó là bộ "Tử Vi chính nghĩa" và bộ "Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh". Hoàng Bính truyền Tử Vi cho ba người: "Một là vua Trần Thái Tôn (như vậy vua Thái Tôn là con rể của Hoàng Bính), hai là Hưng Đạo Vương, ba là Huệ túc phu nhân. Nhưng trong đời Trần có rất nhiều nhà nghiên cứu Tử Vi thành danh, hơn cả Hoàng Bính. Trong sách Đông A di sự kể lại những nhà nghiên cứu Tử Vi đời Trần nổi tiếng là: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải, Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật, Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng (xin đừng nhầm lẫn với Hoài Văn Hầu Quốc Toản là người bóp bẹp quả cam), Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư và cháu nội Chiêu Minh Vương là Trần Nguyên Đán. Các công trình nghiên cứu của họ Trần được chép thành bộ "Đông A di sự". Đông A di sự là bộ sách chép tất cả những gì xảy ra trong đời Trần, nhưng đến nay bị thất truyền, chỉ còn phần chép về Tử Vi là còn lại, do con cháu nhà Trần lưu giữ (Chữ Đông với chữ A ghép thành chữ Trần).
Phần cuối cùng của sách có chép: Năm Ất Sửu, niên hiệu Xương Phù thứ 9 (1386) quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán tính số Tử Vi thấy Thái thượng Hoàng Nghệ Tôn có Vũ Phá thủ Mệnh, coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như ruột gan chắc chắn sẽ nghe Lê Quý Ly mà giết vua Trần Đế Nghiễn, thấy Quý Ly có Tử Phá thủ Mệnh tại Mùi, biết y sẽ cướp ngôi, và nhà Trần mất. Muốn bảo toàn lấy giòng giống, ông kết thông gia với Quý Ly, rồi bỏ quan về ở ẩn, ông sáng tác rất nhiều thơ, chép thành tập. Con rể ông là Nguyễn Phi Khanh, cháu ngoại ông là Nguyễn Trãi, Nguyễn Trái sưu tập thơ của ông, chú giải đặt tên là Băng hồ thi tập (Băng Hồ là tên hiệu của Trần Nguyên Đán). Bài tựa Nguyễn Trãi viết nhan đề là Băng Hồ di sự lục.
Công phu nghiên cứu Tử Vi của nhà Trần được truyền qua Nguyễn Trãi. Một số con cháu nhà Trần khi thấy Lê Quý Ly cướp ngôi, mai danh ẩn tích đổi họ, sống trong nhân gian, nhờ vậy bộ Đông A di sự còn được lưu truyền đến ngày nay.
Trong bộ Đông A di sự, ngoài việc chép công trình nghiên cứu Tử Vi, còn chép rất nhiều lá số của các danh nhân đời Trần. Căn cứ vào đây ta có thể biết rõ ngày sinh tử của các vị này.
Chuyện Đoàn Nhữ Hài:
Sau đây là một giai thoại về cuộc gặp gỡ giữa Đoàn Nhữ Hài và vua Trần Anh Tôn:
Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc Tử Giám. Vào niên hiệu Hưng Long thứ 7 đời Trần Anh Tôn (1299). tức năm Kỷ Sửu, Hài đúng 20 tuổi. Một hôm ra chùa Một Cột chơi, gặp thầy Tử Vi. Hài xin xem dùm vận mạng.
Thầy hỏi:
- Cậu sinh năm nào?
- Tôi tuổi Kỷ Mão, tháng 9, ngày mồng 1, giờ Mão
Thầy bấm tay một lúc rồi nói:
- Mệnh cậu lập tại Mùi, Xương Khúc, Kình miếu địa thủ Mệnh. Lại được Nhật Mão, Nguyệt tại Hợi tịnh minh chiếu, thêm cách giáp Quang Quý. Đây là cách đại thần phò tá Đế Vương. Năm nay đại hạn của cậu ở Tị có Hình, Tang, Cơ, Mã được Nguyệt chiếu. Tiểu hạn ở Thân, ngoại triều có Tham, Vũ, Tướng, Quyền, Lộc, Tả Hữu tất thành đại hỉ sự sẽ đến một cách bất ngờ. Khi cậu bị ngựa đá hoặc cắn thì là khi công danh tới đấy.
Hài mừng lắm, về chăm chỉ học, không ngờ trong cuộc thi tuyển chọn thí sinh đề năm Giáp Thìn (1304) thi Thái học sinh (Tiến sĩ) bài của Hài bị đánh trượt vì ngông nghênh quá. Hài tức lắm, ra chùa một cột tìm thầy Tử Vi để đập tráp vì tội nói láo. Nhưng thầy Tử Vi phân trần:
- Tôi chỉ nói năm nay cậu có hỉ sự, tôi đâu có nói cậu thi đậu? Đây tôi cho cậu biết: ngày 13 - 6 này cậu sẽ gần Thiên Tử. Tôi chỉ xin cậu một điều là khi cậu thành danh rồi thì...
- Nếu đúng như lời thầy thì tôi sẵn sàng nghe lời dạy bảo
- Thế thì tốt quá. Ngày 13 - 6 này cậu còn hoạnh phát tài nữa. Vậy cậu phát bao nhiêu xin cho tôi một nửa. Sau này ở địa vị cực cao quý, cậu phải thương yêu muôn dân.
Hài đồng ý, về nhà. Đến đúng ngày 13 - 6 không thấy gần vua như thầy Tử Vi nói. Hài xách gậy đi tìm ông thầy đánh về tội nói láo. Trên đường đi, Hài bị một người cưỡi ngựa đụng vào té văng dưới đất. Người đó vội xuống ngựa đỡ Hài dậy xin lỗi rối rít.
- Tôi đi vội quá lỡ đụng tiên sinh. Xin tiên sinh bỏ qua cho.
Hài nhìn người đó thấy mặc quần, áo lót đội mũ phía sau ra phía trước. Hài bên phải sang bên trái, coi vẻ hốt hoảng. Hài bực mình hỏi:
- Nhà ngươi đi đâu
- Tôi đi tìm cha tôi
Nguyên đó là nhà vua Trần Anh Tôn. Hôm đó vua ngồi uống rượu say mê mệt. Nhân tôn hoàng thượng bất thần về kinh, thấy con say, giận lắm để cây gậy thiên trượng lên mông nhà vua ngụ ý đánh đòn, rồi bảo các quan về Thiên Trường họp.
Lúc tỉnh rượu, Anh Tôn được cung nga, thái giám kể lại, sợ quá chụp mũ đội lên đầu. Trong lúc vội vàng, mới đội phía sau ra phía trước, quên cả mặc áo ngoài, đá chân nọ sang chân kia và đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Vua hỏi Hài:
- Tiên sinh là ai?
- Tôi là Đoàn Nhữ Hài, học trò trường Quốc Tử Giám. Tôi đang buồn vì thi trượt đây.
- Tiên sinh biết chữ chăng?
Hài bực tức:
- Nhà ngươi điên chắc? Ta đã chuẩn bị thi Thái học sinh, thì phải thông Bách gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo, lẽ nào không biết chữ?
Vua Anh Tôn vẫn nhũn nhặn:
- Tiên sinh làm dùm ta bài biểu tạ tội với phụ hoàng ta, rồi ta bảo quan Quốc Tử Giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm Giáp Thìn ta sẽ lấy tiên sinh đỗ trạng nguyên, như vậy được chăng?
Đoàn Nhữ Hài vẫn chưa biết là vua, quát lên:
- Nhà ngươi điên chắc? Muốn rụng đầu chăng? Nhà ngươi có biết rằng chỉ có một người được phép lấy trạng nguyên không? Nhà ngươi là ai?
Vua Anh Tôn đáp:
- Tôi là vua
Hài thất kinh hồn vía nhìn lại, quả nhiên thấy người ấy đội mũ thiên tử, chân đi hài bên thêu Long, bên thêu Phụng. Hài quỳ xuống tung hô vạn tuế và tạ tội. Gặp quan tuần hoàng thành, vua sai lấy thêm ngựa cho Hài cưỡi, lấy áo cho vua mặc rồi lên đường về Thiên Trường. Trên đường đi Hài làm bài biểu dài 2.200 chữ cho vua tạ tội. Thượng hoàng đọc bài biểu ấy, thấy lời văn hàm súc ý tứ cao thâm. Truyền tha tội cho Anh Tôn và gọi Hài vào hầu. Ngài nhìn qua Hài rồi nói:
- Trông tiên sinh dung quang khác lạ, chắc thế nào cũng là bậc văn thần sau này. Để bần tăng coi lại lá số Tử Vi cho tiên sinh xem. Hài trình niên canh bát tự. Thượng hoàng bấm tay xem qua mừng lắm:
- Ta đang lo không có một văn thần trẻ tuổi phò tá con ta. May gặp tiên sinh đây là người trung liệt, văn mô vũ lược, chí tả, tâm hùng đáng là bậc đại thần vậy.
Hài trình việc gặp thầy Tử Vi ở chùa Một cột Thăng Long. Thượng Hoàng cười bảo Hài:
- Khoa Tử Vi do Hoàng Bính tiên sinh truyền cho Thái Tông nhà ta. Con gái người là Hoàng Thái Phi truyền cho bần tăng. Còn thượng phụ cũng được người truyền (thượng phụ tức là đức thánh Trần). Thượng Phụ truyền cho Hưng Nhượng Vương. Hưng Nhượng Vương sau khi bình thát đát, xuất gia đạo hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Chính bần tăng là đệ tử của ngài Tuệ Trung. Người xem Tử Vi cho tiên sinh là ngài Tuệ Trung đấy.
Hài than dài:
- Không biết thân có ân phước gì mà gặp toàn những bậc Thánh chúa, Thánh tăng chỉ đường chỉ lối vậy?
Thượng hoàng nói:
- Chẳng qua là số. Số của tiên sinh cung Nô có Tham, Hồng, Đào, Quyền, Tả nên gặp may, duyên kỳ ngộ mà gặp chúa.
(Trích Đông A di sự)
Khi nhà Hồ cướp ngôi, con cháu nhà Trần ẩn tích mai danh, cải họ, phiêu bạt tứ phương. Quân Minh sang đánh nhà Hồ chở hết sách vở về Kim lăng trong đó có bộ Đông A di sự. Duy có bộ Đông A di sự của con cháu Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng (con thứ hai đức Thánh Trần) nhờ xuất gia nên còn lưu lại trong cửa Thiền được, truyền đến nay. Một bộ nữa do Băng Hổ Tướng công Trần Nguyên Đán truyền cho cháu ngoại là Nguyễn Trãi. Sau khi xảy ra cái án Thị Lộ, bộ trên thất truyền. Suốt trong thời Hậu Lê, con cháu nhà Trần không dám xuất hiện vì bị nhà Lê nghi ngờ trung hưng Trần Triều vì vậy khoa Tử Vi lại trở thành huyền bí.
Mãi tới đời nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), lại tìm được sách của người Trung Hoa trong phái Hà Lạc, về nghiên cứu, khoa Tử Vi phổ thông từ đấy. Nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh thông cả Thiên văn, Địa lý, Bói dịch nên khoa Tử Vi của ông nghiên cứu thiên về Bói dịch nhiều quá, nhiều hơn cả khoa Tử Vi của phái Hà Lạc nữa.
Đời Lê - Trịnh, ông Lế Quý Đôn (1762 - 1784), đậu Bảng nhãn năm 29 tuổi. Năm 1760 ông được sung chức Phó sứ, sang Trung Hoa. Bấy giờ nhằm niên hiệu Càn Long thứ 25, thời gian này là lúc vua Càn Long chưa thống nhất các môn phái Tử Vi. Ông Lê Quý Đôn giao du với các danh sĩ Trung Hoa, được phái Âm Dương cho bộ "Tử Vi Âm Dương Chính Nghĩa kinh, Bắc Tông". Trở về nghiên cứu của ông rất giá trị, hiện còn lưu truyền.
KHOA TỬ VI VIỆT NAM NGÀY NAY
a) Các thư tịch còn lại:
Điểm qua các sách ta thấy:
- Phái Triệu Gia thừa hưởng chính thư của Tống Thái Tổ do Hi Di truyền lại. Trải qua các đời còn lưu giữ được nguyên vẹn. Phái này có bộ "Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh". Cuối đời Tống bộ "Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh", và bộ "Tử Vi tinh nghĩa" được Hoàng Bính truyền sang cho con cháu nhà Trần. Con cháu nhà Trần nghiên cứu thêm, chép thành bộ "Đông A di sự".
- Bộ "Đông A di sự" bị nhà Minh mang về Trung Hoa. Nhà Thanh căn cứ vào bộ:
- Tử Vi tinh nghĩa
- Triệu Thị Minh Thuyết Tử Vi kinh
- Đông A di sự
Mà chép thành bộ Tử Vi Đại Toàn.
Các bộ sách trên đây được coi là chính thư. Học rất mau hiểu và đoán rất chính xác. Hiện nay một số con cháu họ Trần ở Nam Định di cư vào Nam, còn lưu truyền bộ Đông A di sự. Nhưng vì bộ này không chép riêng khoa Tử Vi, mà còn chép nhiều điều bí mật trong họ Trần, nên không mấy người được đọc. Bộ này thực là quý báu.
- Một số nhà nghiên cứu Tử Vi ở Việt Nam, hiện tại là nhờ sách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn để lại. Sự khác biệt giữa các sách thực nhiều vô kể. Nhưng xét kỹ thì bộ Đông A di sự vẫn có lý hơn.
b) Sự khác nhau giữa chính thư và tạp thư:
- Về cách an sao: Như sao Hỏa Tinh, Linh Tinh phái Hà Lạc. Âm Dương căn cứ vào năm rồi lại căn cứ vào tháng, giờ mà an. Trong khi phái Triệu, Trần, Thanh lại chỉ căn cứ vào năm mà thôi.
Như sao Khôi, Việt chính thư an ở Dần, Ngọ cho tuổi Tân mà thôi. Tạp thư lại an cả cho các tuổi Canh nữa. Vòng Trường Sinh chính thư và phái Âm Dương an ở bốn cung Dần, Thân, Tị, Hợi. Trong khi phái Hà Lạc lại đi an cả bốn cung Tí, Ngọ, Mão, Dậu nữa (cung khởi cho sao Trường Sinh).
- Phái Hà Lạc thêm vào rất nhiều sao nữa như đã nói ở trên.
- Về tính chất, vận hạn: Phải công nhận chính thư rất đúng, chính xác nhất. Những bài phú đoán vận chương, uẩn súc vô cùng của các vua nhà Tống của các vua nhà Trần còn lưu lại. Còn những câu phú của tạp thư có lẽ người Tầu họ cũng không thành thực với nhau nên đã sửa đổi, thêm bớt đi khá nhiều.
Thí dụ: tính chất sao Liêm Trinh và Tham Lang tại Tị, Hợi:
- Tạp thư ghi: Liêm Tham Tị Hợi hình ngục nan đào (Mệnh lập tại Tị, Hợi mà có sao Liêm Tham thủ thì thế nào cũng bị tù).
- Chính thư lại nói khác:
Liêm, Tham Tị Hợi tứ Sát hình trượng nan đào
Nhược Bính Quý nhân chung thân khất cái
Giáp Mậu Kỷ tuế vĩnh thế vô ưu
Nghĩa là: Mệnh Liêm Tham lập tại Tị Hợi mà có tứ Sát mới bị tù.
Người tuổi Bính, Quý còn lang thang ăn mày cả đời. Người tuổi Giáp, Mậu, Kỷ thì cả đời vô lo (Sách Đông A di sự còn chú giải thêm: Tuổi Bính Quý bị thêm Đà La, Kình Dương, Hóa Kị nên ăn mày. Tuổi Giáp có Hóa Lộc, tuổi Mậu Kỷ có Hóa Quyền thì tốt lắm).
Chỉ một câu trên ta thấy tạp thư bị cắt xóa đi nhiều. Nếu chép đầy đủ những dị biệt của hai phái ra phải mất vài ngàn trang giấy.
c) Các nhà nghiên cứu Tử Vi ngày nay:
Theo chỗ chúng tôi biết, thì chưa có nhà nghiên cứu Tử Vi nào đi đoán lấy tiền mà đoán cho ra hồn. Hầu hết học qua loa rồi đi bịp đời làm giầu mà thôi. Những nhà nghiên cứu đến nơi đến chốn họ thường khó tính, khi xem cho ai, tốt thì họ nói tốt, xấu thì họ nói xấu. Nên thường làm phật lòng thân chủ mà không cần chú ý. Hơn nữa những vị này thường có địa vị nên đâu phải ai nhờ họ coi dùm được, họ rất bận rộn.
Hiện Việt Nam có những nhà nghiên cứu thành danh sau đây, đều không mở tiệm lấy tiền và có địa vị khá ngoài xã hội:
- Nguyễn Mạnh Bảo (kiến trúc sư)
- Đỗ Văn Lưu (tức Song An)
- Nguyễn Phát Lộc
- Hoàng Quân (giáo sư, ký giả)
- Nguyễn Văn Y (đại tá, cựu Tổng giám đốc CSCA)
- Việt Viêm Tử (học giả)
- Vân Đằng Thái Thứ Lang (tu sĩ)
1 - Ông Nguyễn Mạnh Bảo: là một kiến trúc sư, uyên thâm cổ học. Đem phương pháp chú giải sách Tây phương ra nghiên cứu Dịch kinh, Tử Vi. Ông chú giải sưu tầm tất cả công trình của hệ phái cụ bảng Lê Quý Đôn, tức là phái Âm Dương Trung Hoa. Nhưng ông không chú giải kỹ nên kẻ nào mới vào nghề đọc sách của ông rất nhức đầu, ông bận rộn nhiều việc nên công trình của ông bỏ lửng. Công trình nghiên cứu của ông, được nhiều người ngoại quốc chú ý, và sưu khảo. Phải nói rằng ông làm cho người ngoại quốc biết đến Tử Vi Việt Nam vậy.
2 - Ông Đỗ Văn Lưu tức Song An: Con nuôi họ Trần ở Nam Định nên học được một phần của bộ Đông A di sự. Nổi tiếng từ năm 1930 tại Nam Định, ông có trước tác nhiều sách Tử Vi. Nhưng vì ông không được truyền hết bộ Đông A di sự, nên tác phẩm của ông chưa đến chỗ tuyệt hảo. Ông mất năm 1962 tại Vũng Tàu, ông không có con trai, nên kinh nghiệm của ông bị mất đi, thực đáng tiếc.
3 - Ông Việt Viêm Tử còn có tên là Hà Lạc dã phu (gã nhà quê nghiên cứu Hà Lạc). Công trình nghiên cứu của ông nằm trọn trong bộ "Tử Vi ảo bí". Đọc sơ qua cũng thấy ông trong phái Hà Lạc trung hoa. Bộ sách của ông có nhiều khuyết điểm vì nó có nhiều chỗ bị sai lạc, và nhất là điểm bắt độc giả phải chấp nhận những điều không hiểu tại sao. Trong khi khoa Tử Vi có thể giải thích được. Hình như sách của ông do 2 người viết, vì có nhiều đoạn hành văn rõ ra người tân học, và có đoạn lại hành văn ra người cổ học. Sách của ông có nhiều đoạn dài dòng vô ích, như cách tìm Cục, tìm sao Tử Vi, chỗ giải thích lôi thôi về Âm Dương ngũ hành. Nhưng sách của ông giới mới học rất thích.
Bốn nhà nghiên cứu trên đây nổi tiếng nhờ tác phẩm. Song 3 nhà nghiên cứu sau đây mới là ba nhà nghiên cứu tinh vi, và nổi tiếng nhờ tài giải đoán, dạy học trò: Nguyễn Phát Lộc, Nguyễn Văn Y và Hoàng Quân. Ba người đều có địa vị lớn và có dịp tiếp xúc với các danh nhân. Cả ba đều khó tính, và hay nói thực làm mất lòng người nhờ coi, mặc dù sự giải đoán đúng 100%.
4 - Đại tá Nguyễn Văn Y: Cựu tổng giám đốc CSCA hồi đệ nhất cộng hòa, ông lớn tuổi, địa vị cao, ở và tư thế đặc biệt, nên ông liếc mắt qua là thấy một lá số nào bị: mất cắp, ở tù, bị lừa, bị đánh, bị cướp, bị bỏ, bị chết...Hình như 100 lá số ông đoán trúng cả 100.
Người nghiên cứu Tử Vi lấy làm lạ là ông không mấy chú ý đến phá cách, mà đáng lẽ ở địa vị của ông phải coi là chính. Công trình nghiên cứu của ông hình như thuộc phái Âm Dương, nhưng ông không quá chú ý vào lẽ Âm Dương. Đưa một lá số của người bị tù ra hỏi ông, ông có thể đọc cho năm ra tù, bao lâu và bao giờ được tha. Nhưng đưa một lá số của một người có địa vị ra hỏi ông rằng người đó đang mê muội, làm sao cho hết thì ông không quen.
5 - Giáo sư Hoàng Quân: còn là ký giả (Saigon có 2 Hoàng Quân). Một Hoàng Quân người Nam, không biết Tử Vi cũng là ký giả, lớn tuổi. Một là Hoàng Quân trung niên, họ Trần, vì tránh tên cố Đại tá Hoàng Quân nên ông bỏ họ đi. Giòng dõi Hưng Đạo Vương, nên ông được thừa hưởng công trình của phái Đông A. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm và đậu cử nhân Văn khoa, sau khi du học về báo chí, ông làm việc cho cơ quan nghiên cứu Đông Á Châu, nên còn có đủ sách của các phái khác (?). Nhờ vào làm vị trí đại diện cho vài cơ quan nghiên cứu và báo chí ngoại quốc nên ông có dịp tiếp xúc với hầu hết danh nhân đương thời, do đó ông đoán về bước thăm trầm danh vọng rất trúng. Cầm một lá số của vị Tướng, ông đọc được năm nào thăng cấp, năm nào bị phạt, bị thương, bị mất chức trong suốt đời binh nghiệp. Song ông chú đến phá cách nhiều hơn. Cầm một lá số của thân chủ nào đó ông có thể trả lời ngay cho biết muốn làm cho đương số nghiêng ngửa thì dùng loại người nào và cách dùng nào. Công trình nghiên cứu của ông độ 6000 trang in offset và không phổ biến cho ai ngoài thân hữu và huyết tộc.
- Ông Nguyễn Phát Lộc: giữ một trọng trách quan trọng, là một bác học đa năng, ông đã trước tác một cuốn sách Tử Vi. Song sách không phải là đại diện cho công trình nghiên cứu của ông. Công trình của ông không nhất thiết theo phái nào. Song coi kỹ thì cách an sao của ông lại theo phái Âm Dương, trong khi tính chất các sao thì có vẻ như phái Đông A, khi thì có vẻ như phái Âm Dương. Ông được mời làm giảng viên trường Đại học Chiến tranh chính trị về khoa Tử Vi, nên công trình của ông có nhiều ảnh hưởng trong tương lai vào lớp người sau.
7 - Vân Đằng Thái Thứ Lang: là một đại đức, tu tại Đà Lạt, ông có trước tác cuốn sách mang tựa đề "Tử Vi đẩu số tân biên". Cuốn này của ông trình bày rất có phương pháp, mạch lạc. Đọc qua sách của ông, thấy ngay ông ảnh hưởng hai phái:
- Một là phái Âm Dương qua cụ Lê Quý Đôn
- Hai là bộ Đông A di sự
Ông qua đời trong một tai nạn xe hơi trên đường Đà Lạt
V - Kết luận:
Trên đây chúng tôi trình bầy sơ sài về khoa Tử Vi ở Việt Nam để hướng dẫn những vị nào có trí thông minh, có sức kiên nhẫn muốn tìm hiểu khoa này. Quý vị cứ thử nghiên cứu đi sẽ thấy mình mê ngay khoa này. Và bấy giờ mới tỉnh ngộ: Hỡi ơi, mấy tên thầy bói nói láo bịp đời trong khi chả biết cái gì cả. Nếu độc giả nào không sợ bị sự thực mất lòng, thử tìm đến một trong ba nhà nghiên cứu trên mà xem, tôi xin cam đoan các vị đó sẽ nói đúng mọi sự quá khứ vị lai ra. Nhưng làm thế nào để quen được với các vị là một điều khó (Tôi xin mách: Muốn tới Đại tá Y thì nên để người nào mà thân nhân có tai nạn hỏi xem có bị tù không? Tù bao lâu? Bao giờ tù? Tới ông Nguyễn Phát Lộc thì các vị cứ nói rằng nghe tiếng nay có sự đến xin chỉ dẫn. Tới giáo sư Hoàng Quân thì nhờ mấy tờ báo làm trung gian (Tôi xin dặn trước rằng cả ba người đều ở vào địa vị nhiều tiền danh vọng cao...Xin chớ nói đến trả thù lao mà bị mắng liền).
Nguồn: KHHB - Số 74G2
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)