Lá Số & Cuộc Đời Của Nữ Danh Ca Phương Hồng Quế
Sinh năm Quý Tị, tháng 5, ngày 9, giờ Mão
Âm Nữ, Thủy Mệnh, Thủy Nhị Cục
Lá số Tử Vi - Danh Ca Phương Hồng Quế
Khái luận về Mệnh, Thân và Cục:
Mệnh lập tại Mão, Chấn cung, Âm Mộc, hướng Chính Đông, hợp màu xanh. Có Thiên Tướng, Nam Đẩu tinh, Dương Thủy tọa thủ, ngộ Thiên Phủ, Xương Khúc, Lộc Mã, Long Trì, Lâm Quan, Mộc Dục, Hỉ Thần.
Thân cư Di tại Dậu, Đoài cung, Âm Kim, hướng Chính Tây, hợp màu trắng. Có Liêm Trinh, Bắc Đẩu tinh, Âm Hỏa và Phá Quân, Bắc Đẩu tinh, Âm Thủy đồng tọa thủ hội Mộc, Cái, Hổ, Tấu, Diêu, Khôi Việt, Cáo Phụ, Long Phượng, Thái Tuế, Hóa Lộc.
Số này đi lạc bộ sao văn tinh, lộc tinh, phúc tinh và đài các tinh. Lá số bị chiết giảm, may nhờ Âm Nữ mà Mệnh Thân đều đóng ở cung Âm Thủy mênh, chính tinh là Thiên Tướng cũng thuộc Thủy. Tuy nhiên cùng đóng tại Mộc cung nên tinh lực cũng bị chiết giảm, khiến nên lúc nhỏ lận đận trong việc tự lập sự nghiệp cầm ca của mình.
Nhìn về Thân - Thế: Thân cư Thiên Di tại Dậu, Thủy nhị Cục mà Thân đóng Kim cung được tương sinh, gặp Phá Quân thuộc Thủy tọa thủ ở đây hợp với Thủy cục.
Mệnh Tướng, Thân Phá: thông minh mưu lược vô cùng. Nhờ gặp Thiên Phủ, Liêm Trinh hội Xương Khúc, Lộc Mã trở nên thuần lương không bị vấn đề danh lợi đẩy vào bước đường liều lĩnh phiêu lưu.
Cách: Số này nhờ Âm Nữ, Thủy Mệnh, Thủy Nhị Cục. Mệnh Thân đều đóng cung thuộc Âm, các bộ sao Văn Tinh, Phúc Tinh, Đài Các tinh, Lộc tinh tuy đóng lạc hãm nhưng có thể hội họp ở hai cung Thân Mệnh vì hai cung này thuộc Âm và đối diện (Mão Dậu). Do đó Thân và Mệnh đương số tính chung được cách: Tướng Phủ triều viên ở Mệnh, Sát Phá Liêm Tham ngộ Tử Phủ Vũ Tướng ở Thân.
Thân Mệnh hội Long Phượng, Xương Khúc, Khôi Việt, Lộc Mã, Tuế Tấu Cái, Hổ Khốc Khách, Diêu Hỉ. Với cách này có thể là ca sĩ bạc chung, hòa lẫn vào số đông các chị em ca sĩ thiếu may mắn trong các biệt đoàn văn nghệ. Nhưng may mắn thay đương số gặp được đại hạn và tiểu hạn gặp đủ các bộ sao Văn, Lộc, Phúc đưa Phương Hồng Quế lên đài danh vọng bằng đôi hài bảy dặm.
Danh ca Phương Hồng Quế
Luận về Đại tiểu hạn và những biến chuyển:
Bắt đầu từ năm 12 tuổi, Tiểu hạn đến Nô Bộc. Cung này Vô Chính Diệu đắc Nhật Nguyệt, Kiếp Không, Khoa Quyền, Quang Quý, Sinh, Vượng, Tướng Ấn Lộc, Thiếu Âm, Thanh Long, Thiên Hư và Cự Cơ, Quyền Lộc hội.
Đại hạn cung vừa đổi lên Phụ Mẫu cung, đắc cách Mộ trung tọa là vinh hiển, lại thêm cách Thìn thượng Cơ Lương hội Tướng Ấn, Khoa Lộc, Hồng Hỉ. Nội tướng ngoại binh vì đương số Thủy mệnh là Thiên Tướng cũng thuộc Thủy, hạn đến Kim cung thuộc Đại hạn tốt nhờ đó danh ca Phương Hồng Quế chói sáng trong chương trình Ban Việt Nha (chữ quá mờ) năm Giáp Thìn 1964 nhưng 2 năm sau 1965, 1966, Tiểu hạn gặ liên tiếp Tuần. Tuần án ngữ khiến đương số cố gắng gượng vẫn bị trở ngại ngăn đón. Trở nên năm 1967 (Đinh Mùi) Tiểu hạn đến Phúc Đức, Lưu Đại hạn ở Tật Ách hội đủ Long Phượng Hổ Cái, Tuế Tấu, Hồng Đào, Diêu Hỉ, Lộc Mã, Sinh, Vượng, Nhật Nguyệt, Tử Vũ Thất Sát ngộ Thiên Mã, Thiên Phủ, Vũ Khúc ngộ Hóa Lộc. Năm này vận hội hanh thông đã đưa đương số một bước nhảy vọt sáng chói trên vòm trời nghệ thuật. Tiếp đến năm sau Đại hạn trùng phùng ở cung Phụ Mẫu đi vào hạn Mộ trung Thai Tọa, Thìn thượng Cơ Lương nhưng lại hội đủ bộ hung tinh Cô Quả, Thương Sứ, La Võng cho nên đương số bị nhiều thị phi nhất là về tình yêu. Để rồi kéo dài tình nguyên ngang trái kéo đến năm 1969, Tiểu hạn đi vào Mẹnh có Thiên Tướng lạc hãm, tiếng tăm càng bất lợi cho đương số về chuyện giao du với tình nhân nơi trà đình tửu điếm (tính Thiên Tướng vốn thích la cà nơi chốn ăn chơi).
Năm 1970, Canh Thân, đương số 18 tuổi, Tiểu hạn đến Huynh Đệ có Kiếp Không ngộ Hồng Đào, Thai Phục, Tả Hữu, Hỏa Tinh. Thiên Không ngộ Hóa Quyền khiến nên đương số cũng tự hiến dâng đời mình để rồi chia ly đôi ngả. Nếu Tiểu hạn năm này không có Thiên Đức, Nguyệt Đức, Phúc Đức ngộ Thiên Quan quý nhân thì đương số đã đạp lên dư luận để sống kiếp chồng chung.
Về sự nghiệp ca hát năm này đi đến tuyệt đỉnh danh vọng và dồi dào tiền bạc. Hạn có Thái Dương ngộ Thanh Long giúp đương số có dịp xuất ngoại nữa.
Năm 1971 (Tân Hợi) Tiểu hạn đến Phu Quân ngộ Triệt nên đương số đã cương quyết cắt đứt tất cả để vui sống với gia đình, nhưng năm này có Tham Hình, Hồ Khốc, Kình Kị ngộ Tang Môn, Thái Tuế khiến nên đương số bị dư luận quấy rầy mãi dù chuyện lòng đã dứt khoát. Do đó đôi lần đương số đã nghĩ đến chuyện đi tu hoặc lìa bỏ cõi đời một cách táo bạo vào những tháng cuối năm. Lại nhờ Tiểu hạn ở Sửu cung, giao thoa được với Phúc Đức có Tử Vi, Thiên Phúc, Giải Thần và Hóa Lộc ở Thiên Di hội chiếu đã hóa giải những ý nghĩa quẩn này của đương số.
Năm 1972 (Nhâm Tí), Tiểu hạn đến cung Tử Tức, Đại Tiểu hạn giao huy Triệt lộ chỉ ảnh hưởng ở cung Sửu thuộc Âm vì tuổi này thuộc Âm Nữ. Nă này có Cơ Lương, Đồng Âm ngộ Khoa Lộc, Tả Hữu, SInh Vượng, Thiên Quý ngộ Thiên Quan quý nhân (Tuần ở Điền Trạch cung nghiêng nặng bên cung Quan Lộc giúp cho đương số gặp được nhiều hoạch tài và nhiều mối tình mang theo cả sự nghiệp đặt dưới sự điều khiển của đương số. Tuy nhiên đương số còn gặp nhiều trở ngại bởi Kình Đà kẹp giữ phải chờ đến năm 1973 Tiểu hạn sang cung Tài Bạch, đương số 21 tuổi, hạn gặp Tướng Phủ triểu viên hội Tử Vi, Thất Sát, Thiên Mã, Khôi Việt, Xương Khúc. Cung Hợi thuộc Thủy hợp với Thủy mạng và Thiên Tướng thủ Mệnh. Do đó năm này đương số sẽ thay đổi một hoàn cảnh tốt đẹp thuận lợi hơn trước để bù lại mấy năm lận đận vừa qua.
Nguồn: KHHB
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)
Bài viết liên quan
Hạnh Phúc Vợ Chồng Qua Cung Phối
Những Điểm Sai Lầm Trong Các Sao Tử Vi
Vài Điểm Nói Thêm Về Bản Lập Thành Lá Số Tử Vi
Về Những Kinh Nghiệm Tử Vi Chúng Tôi Tiếp Nhận Của Các Vị Lão Thành
Những Nguyên Tắc Giải Đoán Vận Hạn Trong Tử Vi
Lá Số Đặc Biệt Để Làm Quen Với Phương Pháp Giải Đoán
Phân Tích Các Nguyên Tắc Chánh Yếu Về Tinh Đẩu Tại Cung Mệnh, Thân
Cụ Đẩu Sơn Góp Ý Về Vòng Tràng Sinh