Lá Số Tử Vi - Thạch Sùng
Phú gia địch quốc, nhưng rồi phá sản. Thạch Sùng tắc lưỡi tiếc (bị mất chứ)...đêm dưới lốt con mối len tường.
Định Công Phổ
Nhà đại phú Thạch Sùng tên thật là gì?
Trong sử sách cũng như khi ta nói chuyện hỗ nói đến những nhà cự phú ta ví ngay đến giầu như Vương Khải, Thạch Sùng. Nhất định ông Vương Khải thì họ Vương tên Khải rồi, thế còn ông Thạch Sùng? Theo huyền thoại thì xưa kia, có một nhà giàu "Phú gia địch quốc, đến khi cơ nghiệp bị phá sản, ông ta buồn lắm, rồi tắc lưỡi mà chết, sau hóa ra con Thạch Sùng là con vật bốn chân thuộc loại bò sát mà chúng ta thấy bò trên tường hoặc trần nhà bắt muỗi ăn. Nhưng theo thiển ý thì ông này họ Thạch tên Sùng. Cũng vì ông tắc lưỡi mà chết, cho nên sau khi ông ta chết thiên hạ lấy con rắn mối bò sát trên tường mà đặt tên nó là con Thạch Sùng, vì nó cũng hay tắc lưỡi như ông Thạch Sùng trước khi ông về bên kia thế giới...chết vì tiếc của!
Giải đoán về lá số Thạch Sùng:
Thạch Sùng sinh năm Giáp Ngọ, tháng 5, mồng 3, giờ Dần, Dương Nam, Kim Mệnh, Mộc Tam Cục.
Lá số Tử Vi - Thạch Sùng
Cung Mệnh ở Thìn có Tham Lang đắc địa. Đây là cách Mệnh Tuần, Thân Triệt, không có Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương cứu giải thì vất vả suốt đời vì không có lúc nào được xứng ý toại lòng. Đó cũng là cái tính ham làm giàu muốn giàu mãi thêm lên, nó làm cho đương số phải vất vả là vì thế. Tham Lang chính tinh đắc địa ngộ Tuần là xấu, thêm nữa cái khung gồm ba sao Suy, Điếu Khách, Thanh Long một tốt hai xấu lại xấu thêm.
Nhưng đương số được cách "Sử thế vinh hoa, Quyền Lộc thủ tài đắc chi mệnh" nghĩa là phú quý vinh hoa nhất đời. Lại còn được cách Văn Xương, Vũ Khúc củng Mệnh là số cự phú, thêm Thiên Mã (Kim) thì giầu to là phải.
Cung Tài Bạch: ở Tị có Phá Quân hợp với Mệnh Kim và Mộc Cục, đó là cách "Sóng cồn đại hải" có sách nói sự giầu có nên đứng xa mà xem, chớ lại gần.
Cung Thiên Di: ở Tuất có Vũ Khúc miếu địa và Hóa Khoa. Đương số xuất ngoại thường chỉ nói về tiền bạc, lại có Hóa Khoa là có tài ăn nói và tránh được tai nạn. Thêm nữa cung Thiên Di, Lộc Tồn và Hóa Lộc hợp chiếu số này hễ ra khỏi nhà là hốt bạc hốt châu báu ngọc ngà.
Cung Thân: cư Quan Lộc ở Thân có Thất Sát miếu địa ngộ Triệt là xấu lắm. Ở đây tôi xin phép mở một dấu ngoặc: cung Thiên Di thì nói về cách xuất ngoại của đương số, vì vậy hết thảy các sách in nói về Tử Vi Đẩu Số đều giải thích như sau: Tỷ dụ, Thiên Di có Tử Vi với Tả Phù, Hữu Bật thì xuất ngoại có quý nhân phù trợ, hoặc Thiên Di có Tuần Triệt án ngữ, ra ngoài hay gặp những sự phiền lòng, lúc chết ở xa nhà.
Còn cung Quan Lộc mới là cung nói đến kẻ đối thủ của đương số. Nếu có Tuần Triệt án ngữ sẽ gặp nhiều trở ngại trên đường công danh. Đã có lần chúng tôi viết:
"Triệt án, Đế vương Quan Lộc vị
Vua còn bị truất kể chi quan"
Để giải đoán số của một vị Quốc trưởng, cung Quan Lộc có Triệt án ngữ mà bị truất phế.
Lại một tỷ dụ khác: Trong một công sở nọ, cần một viên chức, mà có hai người xin ứng thí. Khi hai vị này củng cố sức tranh dành một việc, chẳng phải là đối thủ của nhau sao?
Lại có người đặt vấn đề: Những người không phải là Công quân thì cung Quan Lộc thành vô vị ư? Chúng tôi xin đáp là ai ai cũng cần đến cung Quan Lộc hết thẩy. Tỷ dụ mấy nhà thầu khoán cùng đến bỏ thầu để được chấp nhận cung cấp cho Nhà nước vật liệu hay nhân công gì đó, khi mấy nhà thầu này tranh nhau một việc, họ đều là đối thủ của nhau. Vậy xin kết luận:
Cung Thiên Di là nói về cách xuất ngoại có được vị nể hay coi thường, và lúc chết, chết xa nhà hay bị cách "Thượng lộ mai thi" là chôn xác ngoài đường. Còn cung Quan Lộc để xem đối phương của đương số là người thế nào, hiền hòa với mình hay tìm cách hãm hại mình. Xem cung Quan Lộc cũng có thể biết đối phương là người dùng tài trí với mình hay là hạng người tìm cách hạ mình, bằng những phương tiện bỉ ổi, phi nhân phi nghĩa.
Trở lại cung Quan Lộc của Thạch Sùng ta thấy có Thất Sát ở Thân là cách "Thất Sát Triều Đẩu, tước lộc vinh xương", Nhưng ở đây Thất Sát ngộ Triệt, thì trái lại xấu lắm. Đối thủ của Thạch Sùng là những tay có thế lực nhưng quá tàn ác, đánh cho Thạch Sùng tuyệt nghiệp để rồi ôm hận mà chết, và trước khi nhắm mắt từ biệt cõi đời còn tặc lưỡi tiếc của!
Cung Phúc Đức: ở Ngọ, tuy được cách "Lộc Quyền sử thế vinh hoa", nhưng có Thái Tuế bị Khốc Hư xung chiếu là số không được hưởng phúc dồi dào và giảm thọ.
Vận Hạn:
Đạn hạn 10 năm:
- Từ nhỏ đến 12 tuổi: Trong sung túc nhưng vất vả vì chỉ thích có tiền của (Đẩu Quân).
- Từ 13 đến 22 tuổi: có Cự Môn ở Tị hãm địa, ngộ Tuần thành tốt, đây là cách "thực lộc tri danh" có tiền rồi có danh. Cung Tị có cung Ách ở Hợi xung chiếu có Nhật hãm địa ngộ Hóa Kị, thường bị hao tiền tốn của vì bệnh tật.
- Từ 25 đến 32 tuổi: là thời kỳ đẹp nhất trên đời vì có Song Lộc, Quyền, Khoa tuy rằng có Thái Tuế nên bị thị phi.
- Từ 33 đến 42 tuổi: Có Thiên lương và Kình, Đà, Hỏa, Linh, Hình, Kị là thời kỳ xuống dốc. Vì sao Thiên Lương là Nam Đẩu tinh, nên chỉ ảnh hưởng về 5 năm sau là năm 38, 39, 40, 41 và 42 tuổi mới thật là xấu.
- Từ 43 đến 52 tuổi: Ở Thân, vì Thân Mệnh bị Triệt án ngữ, thêm Thất Sát, Thiên Mã, Tang Môn, Bạch Hổ, Cô Thần, Quả Tú và sao Tuyệt nên đoán là xấu lắm, Thạch Sùng chết trong Đại hạn này.
Tiểu hạn 1 năm:
Năm Mậu Dần, Thạch Sùng 45 tuổi, Tiểu hạn ở cung Tí có Phá Quân gia thêm Khốc Hư và Phục Binh đồng cung, xung hợp chiếu có Thái Tuế, Văn Xương, Thất Sát, Thiên Mã, Tuyệt nên gia tài bị tiêu tán, sản nghiệp tan tành cho nên ôm hận và chết tức chết tưởi.
Lưu niên Đại hạn:
Năm 45 tuổi, lưu niên đại hạn ở cung Sửu có Địa Kiếp, Thiên Không, Địa Không, Đà La, Linh Tinh, Quan Phù, Trực Phù và Thiên Hình, nhiều sao xấu quá tụ họp và không có sao cứu giải như Tử Phủ Khoa Lộc cho nên phải chết. Đó là đúng Mệnh Trời.
Nguồn: KHHB - Số 74E2
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)
Bài viết liên quan
Hạnh Phúc Vợ Chồng Qua Cung Phối
Những Điểm Sai Lầm Trong Các Sao Tử Vi
Vài Điểm Nói Thêm Về Bản Lập Thành Lá Số Tử Vi
Về Những Kinh Nghiệm Tử Vi Chúng Tôi Tiếp Nhận Của Các Vị Lão Thành
Những Nguyên Tắc Giải Đoán Vận Hạn Trong Tử Vi
Lá Số Đặc Biệt Để Làm Quen Với Phương Pháp Giải Đoán
Phân Tích Các Nguyên Tắc Chánh Yếu Về Tinh Đẩu Tại Cung Mệnh, Thân
Cụ Đẩu Sơn Góp Ý Về Vòng Tràng Sinh