By Tử Vi Chân Cơ|
20:37 14/11/2025|
Bài Viết Sưu Tầm
Mệnh Cung Vô Chính Diệu
Mệnh vô chính tinh, hay còn gọi là mệnh vô chủ tinh, là trường hợp cung Mệnh không có bất kỳ sao chính nào trong số 14 sao chính tọa thủ. Để luận đoán dung mạo và tính tình, có thể mượn toàn bộ các sao ở cung đối, đồng thời tham khảo các cung Phụ Mẫu, Phúc Đức và Tật Ách cùng với các tiểu tinh ở cung Mệnh để luận đoán.
Mệnh vô chính tinh, mượn toàn bộ các sao ở cung đối và cùng với các sao phụ của cung này để luận đoán cát hung (vị trí miếu, vượng, hãm của các sao vẫn lấy cung gốc làm chuẩn). Nếu cung Mệnh không có sao Sát, Kỵ thì cát hung ở cung đối sẽ được giảm đi, chỉ ảnh hưởng khoảng 60%; nếu cung Mệnh có Sát, Kỵ thì cung đối có cát chỉ ảnh hưởng khoảng 40%, còn nếu có hung thì tính hung không giảm mà tăng lên gấp bội. Mệnh cung vô chính tinh, nếu cung này có nhiều cát tinh mà không có sát tinh, ba cung Tài Bạch, Thiên Di, Quan Lộc có cát tinh củng chiếu, tạo thành cách cục tốt, sau nỗ lực cũng có thể giàu sang, hiển vinh, nhưng tuổi thơ nhiều khó khăn, và nên đi xa phát triển. Nếu cung Mệnh có các sao Sát, Kỵ hãm địa tọa thủ, thì là cách cục thấp, dù tam phương có cát cũng chủ về thành bại nhiều lần; tam phương lại có ác sát xung chiếu thì tính hung tăng gấp bội, phần lớn là mệnh phá sản, bại gia, phải ở với hai họ (con nuôi) mới có thể sống lâu, rời tổ tiên mới có thể lập gia đình và phát triển.
Mệnh vô chính diệu, thường có tính không thực tế hoặc do dự, thiếu quyết đoán, cảm xúc hỉ nộ ái ố thường bị ảnh hưởng bởi bên ngoài mà thay đổi (bên ngoài chủ yếu là không gian hoạt động xã hội của cung Thiên Di), là người tương đối ích kỷ, nhỏ nhen.
Mệnh vô chính diệu, duyên với Lục Thân bạc bẽo, lúc nhỏ rời nhà hoặc được người khác nuôi dưỡng, nếu cung Phụ Mẫu cũng vô chính tinh hoặc không tốt thì càng ứng nghiệm; cung đối là Cự Môn, Phá Quân, có khả năng được hai họ nuôi dưỡng, đặc biệt nữ mệnh càng có khả năng này; và tuổi thơ nhiều tai họa, nên phát triển ở nơi khác.
An Mệnh ở Tý, Ngọ, cung đối là Đồng Âm. Là người cương cường, có tài năng, tiếc tiền, có hứng thú với rượu, cờ bạc.
An Mệnh ở Dần, Thân, cung đối là Dương Cự. Giỏi quản lý tài chính, sở thích rộng, nhưng bảo thủ, đa nghi, học nhiều mà không tinh, cả đời thăng trầm lớn. “Cự Nhật đối chiếu, thực lộc trì danh” (chỉ miếu vượng mới là, hãm địa thì không phải), mệnh ở Thân, Cự Nhật ở Dần xung chiếu, tức là; vì Thái Dương ở đất vượng, cung Quan Lộc Đồng Âm ở Tý và cung Tài Bạch Thiên Lương ở Thìn đều vượng, do đó chủ về rất có tài, chủ về nổi danh trước rồi mới được lợi, không có Sát thì luận là thực lộc trì danh, có thể giàu sang, có thể làm bác sĩ, luật sư, tài chính. Thích nhất có Lộc Mã đến giúp, không quý cũng giàu. Vì Mệnh vô chính tinh, không dựa vào sản nghiệp của tổ tiên, rời xa quê hương, kỵ nhất Sát tinh nhập Mệnh, Thiên Di phá cách, chỉ có thể làm thầy cúng, thầy bói. Nếu được Khoa, Quyền, Lộc, Tả, Hữu củng chiếu, khả năng làm việc đạt trình độ cao, tài quan song toàn. Người sinh năm Quý là cách thượng đẳng, người sinh năm Bính cũng tốt, người sinh năm Đinh Khoa, Quyền, Lộc hợp, nhưng Hóa Kỵ xung chiếu, chủ về trước vất vả sau an nhàn, có thể giàu. Thêm Sát, Kỵ là phá cách, thuộc hạng thầy cúng, thầy bói. Hội Lộc Mã, rời xa quê hương phát tài, có thể làm bác sĩ, luật sư, có thể giàu. Mệnh ở Dần, Cự Nhật ở Thân xung chiếu, vì Thái Dương lạc hãm, cung Quan Lộc Đồng Âm ở Tý và cung Tài Bạch Thiên Lương ở Thìn đều hãm yếu, không có tài năng, không tốt.
An Mệnh ở Dần, Thân, cung đối là Cơ Âm. Là người nhiệt tình, hào sảng, nói chuyện vui vẻ, có tấm lòng, thích náo nhiệt, giao du rộng, dễ bị hiểu lầm và thị phi. ◇ “Cự Nhật củng chiếu diệc vi kỳ”, Thái Dương và Cự Môn ở Tam phương cung Mệnh củng chiếu, nếu Thái Dương cư miếu vượng và gặp nhiều cát tinh thủ chiếu, chủ về giàu sang, nổi danh trước rồi mới được lợi. Mệnh ở Dần, Thái Dương ở Ngọ vượng địa, hợp cách, người sinh năm Giáp, Đinh, Tỵ, Tân, hội Cát chủ về đại phú đại quý; Mệnh ở Thân, Thái Dương ở Tý hãm địa, không hợp cách, bình thường, người sinh năm Mậu, Quý vẫn tốt. Cung Mệnh kỵ nhất gặp Tứ Sát, xa quê hương, hình khắc, thương tật, hoặc kiện tụng, tù tội; Không, Kiếp ở Mệnh, Thiên Di, hư danh, hư lợi, phá tài, bại nghiệp.
An Mệnh ở Dần, Thân, cung đối là Đồng Lương, cũng là cách Cự Nhật củng chiếu, cung Thân Thái Dương ở Thìn miếu vượng, hợp cách, cung Dần Thái Dương ở Tuất thất hãm, kém hơn. Vì Tử Vi, Thiên Phủ kẹp ở hai bên cung Mệnh, ◇ nên cũng là Tử Phủ giáp Mệnh quý cách (chỉ giới hạn ở cung Dần, Thân, cung khác không phải là quý cách), không có Sát xung phá, chủ về giàu sang, quyền quý. Suy nghĩ lãng mạn, học rộng, tài năng đa dạng, cả đời yên tĩnh, an nhàn, không sợ nguy hiểm, và có thọ. Vì vô chính tinh, vẫn phải có nhiều cát tinh mới luận là giàu sang, không có cát cũng bình thường, có sát thì phá cách. Cách Tử Phủ giáp Mệnh vì Tử Vi nhập cung Lục Thân, dù có cát giúp cũng chủ về cách cục không cao, và vất vả mà sự nghiệp khó thành.
Mệnh tọa Sửu, Mùi vô chính tinh, Nhật Nguyệt đồng cung ở cung đối chiếu, có cát không sát là Nhật Nguyệt đồng lâm cách, cung Mùi tốt hơn cung Sửu. Tính khí cao ngạo, thích nghiên cứu vấn đề chính trị. “Nhật Nguyệt đồng lâm cư Hầu Bá”, thêm cát, hóa cát, chức quan có thể đạt cấp tỉnh; người sinh năm Bính, Mậu, Tân gặp thì là thượng cách; người sinh năm Canh kém hơn, vẫn có thành bại. Xương, Khúc đồng cung hoặc hội kẹp, sinh ra vinh hoa, thêm Tả, Hữu kém hơn một chút. Kỵ gặp Sát, Kỵ, cũng giống như “Minh Châu xuất hải cách”, chủ về có hình thương.
Mệnh tọa Sửu, Mùi vô chính tinh, cung đối là Vũ Tham. Cá tính nóng nảy, hờn dỗi bất an, vất vả, hao tâm tổn trí cả đời.
Mệnh tọa Sửu, Mùi vô chính tinh, cung đối là Đồng Cự. Là người khéo léo, xử thế khá đúng mực, cả đời nhất định tình cảm nhiều trắc trở, sẽ có một đoạn tình yêu không vui (không trọn vẹn).
Mệnh tọa Mùi vô chính tinh, cung đối là Đồng Cự. Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi tương hội, là Minh Châu xuất hải cách. Cách này không có Sát nhập cung Mệnh và có cát giúp thì là cách cục giàu sang. Là người lòng dạ lương thiện, quang minh chính đại, có tài năng, sở thích tương đối rộng, lúc nhỏ đắc chí, không có sát thủ chiếu thì tài quan song toàn; chủ về đi xa có tiền đồ phát triển rất tốt; xuất thân gia thế tốt, dòng họ giúp đỡ lớn hơn; Xương, Khúc thủ chiếu, càng có thành tựu. Nữ mệnh thanh tú, đáng yêu. Người sinh giờ Mão, lại là “Xương Khúc đồng cung cách”, sinh ra vinh hoa, đại phú đại quý. “Nhật Mão Nguyệt Hợi, an Mệnh Mùi cung, đa chiết quế”. Cách này có ý nghĩa là bảng vàng đề tên, người sinh năm Nhâm là thượng cách, người sinh năm Bính kém hơn một chút. Tam phương không thấy cát cũng là hung, trước siêng năng sau lười biếng. Cách này Mệnh vô chủ tinh, kỵ nhất Kình Dương thủ cung Mệnh phá cách, hư danh, hư lợi, tai họa bất ngờ; Hỏa, Linh, Không, Kiếp cũng kỵ.
Cung Mão, Dậu vô chính tinh, cung đối là Cơ Cự. Giỏi đối nhân xử thế, hiểu lễ nghĩa, sinh ra phúc phần dồi dào, cả đời tương đối thuận lợi, vui vẻ. Người sinh năm Ất, Bính, Đinh, Mậu, Tân, Nhâm, thêm cát tinh, cũng có thể giàu sang. Thêm Sát, Kỵ, cả đời nhiều thị phi, khẩu thiệt và tai họa hung hiểm, và chủ về âm mưu, gian xảo, độc ác.
Cung Mão, Dậu vô chính tinh, cung đối Tử Tham, trầm ổn, thực tế, hiền lành, hướng nội, giỏi thấu hiểu lòng người, thích tĩnh không thích động, thích ngũ thuật, tôn giáo, suy nghĩ tương đối đơn giản, hiệu suất làm việc không cao. Cơm áo đầy đủ, cuộc sống vui vẻ. Thiên Phủ, Thiên Tướng ở Tam phương đến hội, có cát không sát có thể thành cách cục Phủ Tướng triều viên. Cả đời sự nghiệp ổn định, nên làm việc trong cơ quan nhà nước, không nên tự mình kinh doanh làm ông chủ. Kỵ nhất thấy Tứ Sát phá cách. Thấy Lục Cát tinh chủ về giàu sang, có quyền lực. Cung đối thấy Hỏa, Linh, là cách tốt.
Phủ Tướng triều viên cách: Thiên Phủ và Thiên Tướng ở hai cung Tài, Quan củng Mệnh, tức là. Mệnh vô chính tinh, an Mệnh ở Mão, Dậu, cung đối là Tử Tham; an Mệnh ở Tỵ, Hợi, cung đối là Liêm Tham; an Mệnh ở Sửu, Mùi, cung đối là Vũ Tham, đều là Phủ Tướng triều viên. Thiên Phủ là kho tài, Thiên Tướng là sao của cơm áo, không có Sát có cát thủ chiếu có thể là cách cục giàu sang, chủ về cơm áo đầy đủ, hưởng thụ tốt hơn, quan hệ xã giao tốt, tình cảm với Lục Thân sâu sắc. Cách cục này không kỵ hai sao Hỏa, Linh; kỵ nhất Dương, Đà nhập Mệnh và đối xung, là phá cách. An Mệnh ở cung Dần, Thân, vì có chính tinh đồng cung nên là cách thượng đẳng, Mệnh vô chính tinh thì bình thường. Nếu gặp Sát, Kỵ, Không, Kiếp gia lâm hoặc củng chiếu cung Mệnh, chủ về vất vả, gian khổ nhưng không đến nỗi nghèo hèn. (Cách này vẫn cần Thiên Phủ gặp Lộc, Thiên Tướng được giáp Cát mới tính là cách cục lớn, cách cục thượng đẳng). An Mệnh ở Sửu, Mùi vô chính tinh, cung đối là Vũ Tham, chủ về cơm áo đầy đủ. Cung Sửu, người sinh năm Bính, Mậu, Canh giàu sang. Cung Mùi, người sinh năm Giáp, Mậu giàu sang. Thêm Xương, Khúc, văn nghệ nổi danh. Thêm Tả, Hữu, sự nghiệp ổn định, thu nhập dồi dào. Tứ Sát nhập Mệnh, hung dữ, không làm việc chính đáng, hình thương, bị lưu đày nghìn dặm. Cung đối gặp Tham Lang thấy Hỏa, Linh, ngược lại chủ về phát nhanh, võ chức vinh hiển.
An Mệnh ở Mão, Dậu vô chính tinh, cung đối là Dương Lương, cung Dậu tốt, cung Mão không tốt. Việc gì cũng hao tâm, vất vả, vật chất vẫn có hưởng thụ. Cụ thể xem thêm Thái Dương cung Mão, Dậu, nhưng cát hung đều phải giảm đi, và cung Mệnh, Thiên Di kỵ nhất gặp Sát, Kỵ.
An Mệnh ở Thìn, Tuất vô chính tinh, cung đối là Cơ Lương, ăn nói giỏi, giỏi biện luận, giỏi bàn về binh pháp, thông minh, mưu trí, có kỹ năng đặc biệt hoặc tài nghệ cao, tự tay lập nghiệp; lòng dạ nhiều toan tính, thích ra vẻ, tự cao tự đại; hạnh phúc tràn đầy, vui vẻ hàng năm, cả đời yên tĩnh, an nhàn. Phần lớn là nhân viên cấp dưới trong cơ quan nhà nước, ít cát cũng có thể làm thầy, làm giáo viên hoặc làm công việc liên quan đến ăn nói. Thêm cát, hóa cát, có thể là thương gia lớn, và có thọ. Thêm Sát, Kỵ, là người gian trá, sự nghiệp có thành có bại, làm thầy bói, thầy cúng giang hồ, mang tài nghệ đi khắp nơi, dễ có tù tội, kiện tụng; thấy Dương, Đà, lúc nhỏ hình khắc, lúc già cô độc, duyên với Lục Thân bạc bẽo. Cung Mệnh có Tuần Không, Triệt Không, Không, Kiếp v.v., không có cát tinh, chủ về cô độc, nghèo khổ, phần lớn lúc già xuất gia làm tăng, làm đạo. Mệnh tọa Tuất, cung Quan Lộc Thái Dương ở Dần miếu vượng, người sinh năm Giáp, Bính, Canh, Đinh, Tỵ, có thể giàu sang. Mệnh tọa Thìn, Thái Dương ở Thân thất hãm, không hợp cách, người sinh năm Canh, Quý hội cát cũng chủ về tốt.
An Mệnh ở Tỵ, Hợi, cung đối là Liêm Tham. Phúc phận mỏng, hao tâm hơn hao lực, chỉ có lúc già mới có thể hưởng phúc.
Nguồn: Blog 360Doc
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)