By Tử Vi Chân Cơ| 10:15 21/07/2024|
Bài Viết Sưu Tầm

Một Lá Số Vô Chính Diệu Đắc Cách - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

THIÊN LƯƠNG

Hưng Đạo Vương là tước vị của hoàng thân Trần Quốc Tuấn, một vị danh tướng nhà Trần có chiến công không kém phần quan trọng và hiển hách so với các vị anh hùng dân tộc như Đại đế Quang Trung, Lê Thái Tổ. Ngài là vị anh hùng đuổi quân xâm lăng Mông Cổ, chứ không phải chỉ là một vị linh thần như một số người hiểu lầm dưới một khía cạnh đánh phạt tà ma cứu nhân độ thế với uy hiệu là Đức Thánh Trần.

Theo một số dã sử, Ngài tuổi Mậu Tí (1228 TL) sinh ngày 30 tháng chạp giờ Ngọ, Quy thần ngày 20 - 8 năm Canh Tí (1300 TL) hưởng thọ 72 tuổi.


Lá Số Tử Vi - Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn

Tuổi Mậu Tí thân mệnh đồng cung tại Mùi Vô Chính Diệu là vị trí của người đã chấp nhận với định mệnh lấy đức nhân hậu làm chủ đích dù thân phận có phải hy sinh cũng không ngại. Vì thế đương số mới ghi được câu nói bất hủ: "Nếu bệ hạ muốn hàng Mông Cổ xin trước hãy chém đầu tôi đi đã rồi sau sẽ hàng cũng không muộn". Ăn nhịp vào câu cứng cỏi bất khuất của thái sư Trần Thủ Độ: "Đầu thần chưa rơi xuống đất thì xin bệ hạ đừng lo".

Người Vô Chính Diệu - Hỏa mệnh đắc Tuần câu hút Nhật Nguyệt tịnh minh Mão - Hợi phải nói là cách Vô Chính Diệu tuyệt hảo, một sự thông minh quán chúng, một đức độ chính đính sánh với trời cao đất rộng (Song Long Quan Phúc), còn Hồng Việt, Tả, Hữu, Khoa, Quyền một khả năng văn võ toàn tài quyền uy đúng mức.

Đây có phải là một vị Thiên Tướng xuống trần như dã sử đã nói: lúc có mang An Sinh Vương phu nhân nằm mơ thấy thiên thần xin đầu thai, đến lúc sinh ra Vương có hào quang mùi thơm ngào ngạt. Lên 6 tuổi đã biết làm thơ và hay bày chơi đồ bát trận (Nam Hải Dị Nhân của Phan Kế Bính).

Lòng chính đính của Vương ngay cả ở bộ tinh đẩu giáp 2 bên Mệnh, Thai, Tọa, Quang, Quý phá tan cả nghi vấn Tử Phá là hoàn cảnh bất hạnh Vương phải gánh chịu một trong hai điều bất trung hay bất hiếu. Vì nhà Trần theo sử liệu, có sự lỉnh kỉnh trong hoàng tộc nên khi Đức Ông An Sinh Vương Liễu lúc sắp qua đời có trối trăng cho Vương là phải giải hận cho Ông. Nên lúc phò xa giá Nhân Tôn chạy loạn vào Thanh Hóa, Vương phải bẻ mũi gươm ở tay để tránh điều nghi kỵ, và tỏ lòng trung thành minh bạch của Vương như đôi vầng Nhật Nguyệt ở số định, tưởng sự chân thành này không còn bút nào tả hết, và công nghiệp vang dội cũng không biết nói thế nào cho đủ với Tuần của Hỏa mệnh.

Đem so sánh với số Vô Chính Diệu của Lê Thái Tổ khi Mệnh đắc Bạch Hổ, cư Dậu, lá số của vị Đại đế cứu quốc cũng được Nhật Nguyệt ở Sửu chiếu lên. Người tuổi Sửu đứng ở Dậu là cái thế của người làm việc chính nghĩa, Kim mệnh đóng Kim cung ở thế Kim, đối phương ở Mão (Mộc) khó mà ở yên không thể không bị khắc chế. Nếu thêm Tuần thì lại giảm uy danh của Bạch Hổ độc thủ, tuy là câu hút được Nhật Nguyệt dễ dàng, vậy không nên quan niệm tính ở "Không" mà định giá trị của số Vô Chính Diệu.

Đại đế Lê Thái Tổ với Bạch Hổ ở Dậu mệnh Kim được Nhật Nguyệt ở Sửu, binh quyền ở Tỵ đủ cái nghĩa một vị Đại đế anh hùng thời cuộc, Còn Hưng Đạo Vương Vô chính diệu không có nòng cốt một sát tinh đắc địa hợp mệnh của tuổi Hỏa, phải mượn thế Thái Dương nhờ Tuần thâu hút, dù Tuần là Hỏa, cũng là một số đắc cách. Nhưng được Tuần lôi kéo Nhật Nguyệt nhất là Nhật ở Mão, Nguyệt ở Hợi là vị trí tuyệt phẩm của thông minh sáng suốt hơn hẳn bất cứ vị trí nào của bộ Âm Dương. Huống chi bồi thêm Tả Hữu, Hồng Việt, Khoa Quyền dư tài làm một vị nguyên soái thông văn đạt võ điều khiển thiên binh vạn mã. Chỉ hiền vị trí ở Mùi là luôn luôn ở thế bị động chỉ tìm cách chống đỡ (Mộc) thế công ở Sửu (Kim). Đối phương từ Đồng Cự đến Hà Sát, Kiếp Không, Toái Kỵ, một đoàn quân từ cấp chỉ huy đến ba quân chỉ biết đem giải khắp đó đây sự khủng khiếp mạnh ai nấy vơ vét, rồi ra cũng chẳng nên trò trống gì ở vị trí Thiên Không chính vị (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi).

Quân Nguyên bắt đầu khởi hấn đem quân sang xâm chiếm vào tháng 10 năm Quý Mùi (1283) cho đến trận thất bại cuối cùng ở Bạch Đằng Giang vào tháng 3 năm Mậu Tí (1288) tức là giai đoạn Hưng Đạo Vương đi vào cung Tí (56-65) nghĩa là giai đoạn thắng thế nhất thời của Vương ở thế chính Thái Tuế, chứ bộ Sát Phá Tham này chẳng có gì là tốt đẹp (hãm địa) quân thần tả sứ thiếu be bét, được một Linh (Thìn) phụ tá cho cấp chỉ huy mặt trận Tham Lang là hợp cách, còn Thất Sát, Phá Quân như là chịu trận không một chút khả năng nâng đỡ, hèn chi Vương phải mấy phen phò giá rời bỏ Long thành.

Đứng về phương diện số, trường hợp Vô Chính Diệu như hai lá số của Lê Thái Tổ và Hưng Đạo Vương phải kể là 2 trường hợp đắc cách nhất. Một đằng tuổi Kim đắc sát tinh đắc địa thủ mệnh, một đằng Hỏa mệnh đắc Tuần thâu hút Âm Dương là hai kiểu điển hình xếp theo thứ tự giá trị. Dĩ nhiên hai lá số này phải sắp xếp sau số của Đại đế Quang Trung, tuổi Nhân Thâm (Kim), Mệnh đóng ở Thân (Thái Tuế) có Thất Sát thủ Mệnh (Kim). Nguyên một chi tiết nhỏ đó cũng đủ thấy một vị anh hùng không biết cái thua là gì.

Xét về công nghiệp thì Đại Vương Quốc Tuấn với cái thân thế là một danh thần phải kể là quá lớn lao đối với Tổ quốc dân tộc thì ngàn thu hương khói, chỗ linh địa Vạn kiếp cũng là rất xứng đáng với lòng dân thờ kính, tuy vậy vẫn còn là thiệt thòi, so sánh với 2 vị Đại đế, phải chăng là ở vị trí Long đức, định mệnh đã an bài.


Nguồn: KHHB - Số 74

Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ