NGUYÊN TẮC LUẬN MỆNH
1. Muốn luận Mệnh trước tiên phải biết rõ về ngũ hành, về âm dương, về tính chất của sao cùng với sao ấy chủ về việc gì, đồng thời cũng phải rõ về ngũ hành, về cường nhược của “địa bàn” (tức là 12 cung Tý, Sửu, Dần, Mão......trong lá số) mới có thể đoán định được cát hung.
Ví dụ: Thiên Tướng Nhâm Quý Thủy, cát tinh tại Hợi chắc chắn là cát, nếu tại cung Tỵ Hỏa thì bất lợi. Nhưng nếu có Văn Xương đồng cung, thì lấy hành Kim của Văn Xương, Trưởng Sinh tại cung Tỵ, Kim này sinh Thủy của Thiên Tướng, đó là cách “Tuyệt Xứ Phùng Sinh”, chẳng những không bất lợi mà còn được đại phú quý.
Ví dụ khác: Tham Lang thuộc Dương Mộc ở tại cung Mùi, có Vũ Khúc thuộc Âm Kim đồng cung, Mùi thuộc Thổ, lại là khố của Mộc, Dương Mộc có gốc, mà Thổ lại sinh Kim, hai sao đều vượng, thêm vào đó, Tham Lang vốn là ác tinh mà lại là cây cao lớn, được búa rìu của Vũ Khúc khắc chế mà có thể thành gỗ để làm rường làm cột. Vậy trường hợp này phải luận là trước thì nghèo nhưng sau là đại phú.
2. Theo sách gốc của Đẩu Số, cho rằng cung thân, cung mệnh của người ta nếu gặp các cát tinh như Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Tả Phù, Hữu Bật, Song Lộc là phú quý, mà phải ở miếu vượng. Nếu gặp Cự Môn, Thất Sát, rồi lại có thêm các sát tinh như Hỏa Linh, Dương Đà đồng cung hoặc xung phá thì luận là hung, là tàn phế.
Khảo sát kỹ về mệnh người ta, lại thấy có rất nhiều người có ác tinh, hoặc chủ tinh lạc hãm mà hành hạn lại gặp nhiều cát tinh hội hợp thì phần nhiều lại có thành tựu độc đáo và nổi bật. Trái lại, nếu cung thân, cung mệnh được cát tinh miếu vượng, chắc chắn là xuất thân phú quý, mà hành hạn bỗng nhiên gặp ác tinh xung hợp, nên bỗng nhiên gặp thất bại, hoặc tai ách, còn nhiều trường hợp nữa mà trường hợp nào cũng đúng. Nếu đoán sai trong những trường hợp này, tất cả là do chỉ luận Mệnh mà không biết bàn về Vận. Nhất là khi gặp phải thời kỳ xã hội rối ren, rất nhiều người Nhật Nguyệt vượng địa nhưng vẫn trắc trở bất lợi, mà người có cách cục “Nhật Nguyệt Phản Bối” tuy có gian lao vất vả nhưng sẽ đạt được thành tựu to lớn khác thường, điều này là do thời loạn và thời trị khác nhau mà việc luận Mệnh cũng có khác.
3. Sao trong Đẩu Số, mỗi sao đều thuộc về một vấn đề nào đó (gọi là sở thuộc), như Phá Quân là Hao tinh, thuộc về con cái. Thiên Cơ là Hỉ tinh, thuộc về anh em. Thái Dương chủ về quan chức, nam thì coi sao này là cha nhưng nữ lại coi sao này là chồng. Thái Âm là Tài tinh, nam thì coi nó là mẹ là vợ. Do đó không kể người đó là sang hay hèn, nếu Thiên Cơ đơn thủ tại Mệnh, phần nhiều là anh em ít, Phá Quân đơn thủ tại Mệnh, phần nhiều là con cháu ít. Thái Dương đơn thủ thì khắc cha, nếu nữ mệnh thì phần nhiều dễ gần với nam sắc. Thái Âm đơn thủ thì phần nhiều khắc mẹ, khắc vợ. Ấy là vì tính chất “đoạt” sở thuộc của sao ở bản thân.
4. Người có tính cứng rắn hoặc mềm yếu, ngu khờ hoặc giỏi giang, mà các sao ở Nam Đẩu, Bắc Đẩu cũng có “sở thuộc”, không kể tính chất thiện ác của sao thế nào, trước tiên hãy bàn về tính chất cứng rắn (cương) hay mềm yếu (nhu) của các sao. Nói chung sao ở Nam Đẩu tính nhu, Bắc Đẩu tính cương, nhu tuy linh hoạt, nhạy bén nhưng lại thiếu phách lực, cương tuy mạnh mẽ, dũng cảm nhưng hơi thiếu suy nghĩ, nhưng Tử Vi trong Bắc Đẩu thuộc Âm Thổ lại chủ về linh hoạt, nhạy bén, nhưng ý kiến không kiên định, ngoại cương nội nhu. Trong lúc Thiên Phủ trong Nam Đẩu thì ngoại nhu nội cương.
Còn về vấn đề luận tính cách mạnh yếu (cường nhược) của người ta thì lấy chính tinh trong cung mệnh làm chủ, nếu là sao “nhu”, thì hạp với trong tam phương hợp và cung thân có sao “cương”, nếu chính tinh trong cung mệnh là sao “cương” thì hạp với trong tam hợp có sao “nhu”, nếu là sao “nhu” mà còn hội hợp với sao “nhu” nữa thì người nhu nhược, rụt rè, không quyết đoán. Sao “cương” mà không có sao “nhu” hội hợp thì chuyên nổi giận, hung bạo.
5. Nguyên lý sinh khắc chế hóa:
a. “Sinh” là gì?
Tức là nói ngũ hành tương sinh: Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ..v.v... Coi Dương sinh Âm hoặc Âm sinh Dương là thượng cát. Còn Dương sinh Dương, Âm sinh Âm tuy cát nhưng kém hơn.
b. “Khắc” là gì?
Tức là nói ngũ hành tương khắc: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ..v.v..., nhưng phải là Dương khắc Dương, Âm khắc Âm mới được, chủ về hung.
c. “Chế” là gì?
Cũng dựa theo ngũ hành tương khắc, nhưng Dương khắc Âm, Âm khắc Dương thì gọi là “chế”. Như cha dạy con, nghiêm khắc nhưng có tình cảm, chủ về trước bĩ sau thái, tức là tiền hung hậu cát.
d. “Hóa” là gì?
Ví dụ như Hỏa vốn khắc Kim mà được Thổ, thành ra Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim là cục dẫn thông, là cục tối thượng, như Vũ Khúc thuộc Âm Kim có Thiên Phủ thuộc Dương Thổ đồng cung, thì Ngọ Hỏa sinh Thổ của Thiên Phủ, Thiên Phủ Thổ lại sinh Kim của Vũ Khúc, tự nhiên dẫn thông, đi đâu cũng có lợi.
Thủy vào cung Kim, Kim vào cung Thổ, Thổ vào cung Hỏa, Hỏa vào cung Mộc, Mộc vào cung Thủy, đều là tương sinh.
Kim vào cung Hỏa, Hỏa vào cung Thủy, Thủy vào cung Thổ, Thổ vào cung Mộc, Mộc vào cung Kim, đều là bị khắc hoặc chế.
Phải nắm rõ nguyên lý sinh khắc chế hóa của toàn bộ các sao, tiếp theo là xem sao rơi vào cung nào, như Liêm Trinh thuộc Hỏa, nếu rơi vào cung Dần, Dần thuộc Mộc, vậy cung Dần là cung Mộc, Mộc sinh Hỏa của Liêm Trinh, đó gọi là tương sinh, nếu Vũ Khúc thuộc Kim đồng cung với Liêm Trinh, mà Liêm Trinh thuộc Hỏa, Hỏa lại khắc Kim, tiền tài của Vũ Khúc (Vũ Khúc là Tài tinh) bị Hỏa khắc, vì vậy tiền của sẽ bị hao tán.
Theo: Phan Tử Ngư
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)
Bài viết liên quan
Giáo Sư Nguyễn Văn Bông Thực Là Một Nhân Tài Đáng Tiếc
Lá Số & Cuộc Đời Của Nữ Nghệ Sĩ Bích Huyền
Hai Vị Chúa Tể Đáng Sợ Trên Lá Số: Tuần & Triệt
Những Câu Phú Tử Vi Ứng Nghiệm Thế Nào? Đẩu Quân Ở Tử Tức; Nhật Nguyệt Đồng Minh Sửu Mùi...
Thuyết Nhân Quả Căn Bản Giải Thích Tử Vi
Ý Nghĩa Đặc Biệt Của Vòng Tràng Sinh Trong Lý Học Đông Phương