By Tử Vi Chân Cơ| 20:26 20/09/2024|
Bài Viết Sưu Tầm

Những Cách Về Mệnh Vô Chính Diệu Trên Lá Số

Kinh nghiệm Tử Vi của cụ Thiên Lương:

Những cách về Mệnh Vô Chính Diệu trên lá số

* Các cách ghi trong sách về Mệnh - Vô Chính Diệu quá đơn giản, thiếu sót, cho nên dễ sai lầm.

* Có Mệnh - Vô Chính Diệu tốt, có Mệnh - Vô Chính Diệu xấu

* Không phải chỉ xoay quanh cái "Đác Tam Không, có khi đắc Tam Không mà tốt, có khi đắc Tam Không mà xấu".

* Tam Không là những Không nào?

Trên đường tìm Mệnh - Vô Chính Diệu:

Chúng tôi có nhiều lá số Mệnh - Vô Chính Diệu trong tay, chúng tôi cũng được nhiều vị thân hữu cho xem những lá số Mệnh - Vô Chính Diệu và xin thú thật càng xem càng như lạc vào rừng. Có những vị Mệnh - Vô Chính Diệu mà thật khá, có những vị Mệnh - Vô Chính Diệu nhưng thật kém. Nhưng cứ theo các sách thì Mệnh - Vô Chính Diệu, cần đắc Tam Không mới "phú quý khả kỳ". Nhưng theo các lá số, có vị Mệnh - Vô Chính Diệu không đắc Không nào, mà được rất khá, lại có vị đắc Tam Không, nhưng lại bị dở.

Xem ra thì sách nói quá thiếu sót, cho nên khó mà đúng được. Theo các sách thì Mệnh - Vô Chính Diệu, cần có Tuần, Triệt án ngữ và cần thêm Thiên Không, Địa Không hoặc không có những "Không" đó, cũng phải có nhiều sao tốt hội họp mới được, nghĩa là mới khá và mới sống lâu. Những cách đại cương đó, áp dụng vào các lá số, khi đúng, khi sai. Tất nhiên, cách Mệnh - Vô Chính Diệu, không phải chỉ đơn thuần được giải đoán như thế, là vì theo thiển nghĩ của chúng tôi, ngoài sự kiện Mệnh không có chính diệu, ngoài các sao Không, còn có các chính tinh chiếu, các hung tinh, các trung tinh tốt khác, còn sự kiện hành của Mệnh...tất cả những sự kiện đó còn ràng buộc với nhau để tạo nên sự tốt xấu.

Trong mục tiêu đi tìm ý nghĩa của Mệnh - Vô Chính Diệu, chúng tôi đã cần đến nhiều vị. Có vị lão thành bảo rằng Tam Không phải là Tuần Không, Triệt Không và Địa Không. Sở dĩ phải kể cả Triệt là vì danh xưng của sao đó là Triệt lộ Không vong. Có vị lại cho rằng Tam Không phải là Tuần Không, Địa Không và Thiên Không, còn Triệt là Triệt lộ chứ không phải là Triệt Không, vả lại danh xưng Thiên Không đã sẵn đó để được kể là một Không. Có những lần, chúng tôi có ghi về kinh nghiệm của cụ Ba La, nói rằng Mệnh - Vô Chính Diệu mà có Tuần, Triệt đóng ở đó, thì dù có gặp các sao tốt như Lộc Tồn, Tam Hóa, Tả Hữu vẫn phải kể là bị giảm đi, bởi vì Tuần & Triệt làm giảm những cái xấu, nhưng cũng chiết giảm những cái tốt. Cho nên Mệnh - Vô Chính Diệu mà được những sao tốt thì phí đi chứ không hay.

Trong phần trước tôi đã đăng một bài nêu lên kinh nghiệm của cụ Quản Văn Chính với chủ đề "Mệnh Vô Chính Diệu có phi yểu tắc bần không?". Trong đó có trình bày 3 lá số Mệnh - Vô Chính Diệu mà không yểu cũng không bần. Điều đó càng thúc đẩy chúng tôi tìm hiểu thêm trọn vẹn những yếu tố để giải đoán trường hợp Mệnh - Vô Chính Diệu. Nay chúng tôi xin trình bày của cụ Thiên Lương nêu lên các kinh nghiệm của cụ, để giải đoán các trường hợp Mệnh - Vô Chính Diệu như sau:

Những cách về Mệnh - Vô Chính Diệu như sau:

Có Mệnh - Vô Chính Diệu mà tốt, có Mệnh - Vô Chính Diệu mà xấu. Sự kiện "Đắc Tam Không nhi phú quý khả kỳ" tức là có Tam Không thì được phú quý một thời gian, cũng không hẳn đúng là thế mà còn phải có những yếu tố khác nữa.

Sau đây là những trường hợp đại cương về Mệnh - Vô Chính Diệu đắc cách. Sau mỗi cách chúng tôi lại có một lá số rất đại cương để giải thích thêm. Chúng tôi xin hẹn lại trong các kỳ sau sẽ bàn kỹ đến từng cách và dựa trên những lá số.

1 - Mệnh  - Vô Chính Diệu có Âm - Dương tịnh minh chiếu:

Tức là Mệnh không có chính tinh thì phải được Thái Dương, Thái Âm cùng sáng sủa chiếu đến. Mệnh tuy Vô Chính Diệu mà không cần có Không nào được Nhật Nguyệt chiếu là đắc cách.

Ví dụ: Lá số Khổng Minh


Lá số Khổng Minh không có "Không" nào tại Mệnh, có Tuần và Địa Không xung chiếu, hợp chiếu có Thái Dương ở Mão, Thái Âm ở Hợi. Nhờ hai ngôi Nhật Nguyệt đó mà Khổng Minh cực kỳ thông minh tài giỏi, và cũng có công danh lớn (còn những sự kiện khác, hạn hành xấu, tốt, thọ hay yểu...Là do những yếu tố khác).

Còn đây là một lá số khác cũng được cách tương tự, có Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu vào cung Mệnh. Đương số là một sinh viên du học có nhiều triển vọng. Có Tuần tại Mệnh giảm bớt cách tốt, nhưng được thế cũng đủ đẹp, đâu phải đạt tới như mạng số của Khổng Minh.


Lá số Mệnh - Vô Chính Diệu của GS Bông, so sánh với lá số Khổng Minh, có những sự kiện kém hơn là vì Tuần đóng tại Tuất Hợi làm giảm Thái Âm và Hao làm giảm Thái Dương. Ngoài ra là vị thế của Suy tại Mệnh so với vị thế Quan Đới tại Mệnh của lá số Khổng Minh. Thêm nữa là Mệnh của GS Bông có Kình Dương và Tang Môn.

- Ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt có thêm các cách quý khác thì hay vô cùng.

Như lá số Đức Trần Hưng Đạo, tuổi Mậu Tí sinh ngày 30, tháng 12, giờ Ngọ.

Lá số minh họa: Đức Trần Hưng Đạo

Mệnh Hỏa, Vô Chính Diệu, có Tuần, được Nhật Nguyệt tịnh minh chiếu nên thông minh, danh vị xứng đáng, Hồng Việt, Tả Hữu, Khoa Quyền (văn võ song toàn, đức độ, chính minh quân tử (Song Long, Quan Phúc chiếu Mệnh) không có hung tinh ở cung Mệnh, chỉ nhờ Nhật Nguyệt chiếu. Tuần thu hút Nhật Nguyệt tịnh minh, lại thêm nhiều trung tinh tốt.

2 - Mệnh - Vô Chính Diệu có hung tinh đắc địa thủ Mệnh:

Mệnh - Vô Chính Diệu, nhưng:

- Có hung tinh đắc địa thủ Mệnh, hung tinh này phải hợp hành của Mệnh.

- Lại phải không có Tuần, Triệt mới được (có Tuần, Triệt thì phá mất cáu thế đẹp của hung tinh đó).

* Một vào tỷ dụ:

- Người Hỏa Mệnh có Thiên Không thuộc Hỏa là hợp cách. Nhưng Thiên Không phải đắc địa, và không được có Tuần, Triệt tại đây.

- Trường hợp Đà La độc thủ tại Mệnh không có chính diệu, nhưng có Đà La đắc địa và hợp với hành của Mệnh (miễn là không có Tuần Triệt phá đi). Phải không có hung tinh mạnh nào khác, mới kể là Đà La độc thủ.

- Lá số Ông Nguyễn Văn Vĩnh: Mệnh ông tại cung Thân, Vô Chính Diệu. Tại đây có Tuần, có Đại Hao, Tang Môn, Địa Kiếp. Ông Vĩnh, Mệnh Mộc, Tang Môn thuộc Mộc và đồng hành với Mộc (sẽ bàn kỹ lá số này ở phần kế tiếp). Ông được ăn vào sao này. Tang Môn ở cung Thân không đắc địa, nhưng được Tuần đóng ngay tại đây nên Tang Môn sáng ra. Còn Hao và Địa Kiếp là Hỏa, bị Tuần là Hỏa chế ngự bớt, cho nên Tang Môn mới được nổi bật lên, phù cho ông Vĩnh. Tuy nhiên cũng vì sự kiện Tang Môn không tự nó phù cho đương số, mà phải nhờ đến Tuần làm sáng ra mới có được ảnh hưởng tốt, cho nên ông Vĩnh lên xuống thất thường.


* Nên ghi thêm rằng: hung tinh phù trì cho Mệnh phải cùng Hành với Mệnh mới tốt. Sinh cho Mệnh thì không bằng. Còn Kình, Hình tuy mạnh, nhưng vì chỉ chiếu sang nên kể là phụ.

3 - Đắc Tam Không nhi phú quý khả kỳ:

Bản Mệnh có mọt không, đắc địa tọa thủ, còn hai không ở Tam hợp chiếu sang, là đắc cách Tam Không. Đây mới thật đúng là cách Mệnh - Vô Chính Diệu đắc Tam Không như các sách nói. Cũng là cách phú quý. Nhưng phải là Hỏa Mệnh mới được ăn. Là vì các sao Không thuộc Hỏa chỉ phù trì cho người Mệnh Hỏa. Kế đó mới là Mệnh Kim được hưởng, Phú có ghi:

"Hỏa phùng Không tắc phát, Kim phùng Không tắc minh"

Ở đây, Không phải là ngay cung Mệnh, chứ không phải chiếu Mệnh.

Ngoài các Mệnh Hỏa và Kim các Mệnh khác không ăn. Như người Mộc Mệnh, thì Hỏa đâu phải của mình? Mộc sinh Hỏa, mình còn bị điêu linh là khác nữa.

Ghi thêm: cụ Thiên Lương cho rằng Triệt không phải là Không, vì Triệt là Triệt lộ, không phải là Triệt Không, Ba Không phải được kể là Tuần Không, Địa Không và Thiên Không (Đây cũng là kinh nghiệm của cụ Ba La).


4 - Mệnh không chính diệu hợp chiếu có xung sát:

Mệnh - Vô Chính Diệu, lại không có hung tinh đắc cách hợp hành để hưởng, lại bị các sao hung sát từ Tam hợp chiếu vào là nguy hại. Đây là trường hợp rất cần đến Triệt, phải có Triệt mới giải tỏa được. Phú ghi: "Tam phương xung sát, đắc nhất Triệt nhi khả bằng". Triệt mà ở ngoài thì chỉ giải được xung sát ở một cung thôi. Triệt phải đóng ngay ở Mệnh mới phá được các xung sát từ ngoài vào. Nhưng cung Mệnh phải Vô Chính Diệu và không có hung tinh đắc chứ nếu có hung tinh đắc cách thì Triệt lại phá luôn cách hay đó.


5 - Mệnh có Không, nhưng lại có Hung tinh đắc cách và Trung tinh đắc cách:

Bên trên đã nói (trường hợp ba) đến cách "Đắc Tam Không". Cách đó có thể bị phá đi bởi sự kiện lại gặp thêm trung tinh hay hung tinh đắc cách. Mệnh - Vô Chính Diệu, có 1 Không tại Mệnh và 2 Không ở 2 cung Tam hợp chiếu vào là đắc cách, nhưng chỉ có thế thôi, hoặc là thêm những sao thường mà thôi. Chứ nếu lại thêm những hung tinh đắc cách và những trung tinh tốt, thì lại giảm kém. Bởi vì những hung tinh và trung tinh tốt ấy, gặp phải Không thì đương nhiên bị giảm kém. Bởi vì những hung tinh và trung tinh tốt ấy, gặp phải Không thì đương nhiên bị giảm ảnh hưởng. Cách đó gọi là "Kiếm Tam Không". Mọi sự, chỉ là phù vân, phú quý có cũng không bền.

* Đây là trường hợp mà cụ Ba La đã nói đến. Cách đắc Tam Không đã là tốt rồi, nhưng lại được cả lô trung tinh tốt (hoặc hung tinh đắc cách) thì lại phèo. Đã không được hưởng các cái tốt đó, mà những cái tốt ấy lại bị trừ đi ở các cung khác.

6 - Mệnh có hung tinh khắc Mệnh:

Mệnh - Vô Chính Diệu phải kiếm ngay đến hung tinh tại Mệnh. Thấy hung tinh tại đây không phù cho Mệnh như trong trường hợp 2, mà lại khắc Mệnh, nhìn ra các cung ngoài chiếu vào thấy các sao Không thì các sao Không này không lợi gì. Đó là trường hợp Ngộ Không: tức là Bần & Yểu.

Mệnh đã bị hung tinh khắc là đã mệt rồi lại thêm Không chiếu vào, thành thử những ảnh hưởng xấu phù nhau, mới thành ra bần và yểu.

7 - Một trường hợp tốt nhưng Mệnh có Tuần:

Mệnh - Vô Chính Diệu có hung tinh đắc cách hợp thành, hợp chiếu lại thêm trung tinh đắc cách là tốt. Nhưng nếu Mệnh có Tuần thì lại kể như hão. Phú có ghi: "Tứ chính giao phù, kị nhất Không nhi trực phá".

8 - Mệnh không có Không nào:

Lại có trường hợp Mệnh - Vô Chính Diệu mà không có Không nào (không có Không tọa thủ hay chiếu) cũng không có hung tinh. Trường hợp này phải xem các trung tinh. Nếu thấy nhiều trung tinh ttoos mới khá được.

* Vài điều ghi chú thêm:

Tuy rằng gặp trường hợp Mệnh - Vô Chính Diệu thì phải xét theo các trường hợp trên mà đoán, nhưng vẫn Không Được Quên: vòng Thái Tiế, vòng Lộc Tồn, vòng Tràng Sinh. Phải nắm vững vòng Thái Tuế mà suy đi, tức là đoán theo vị trí Mệnh tính theo vòng Thái Tuế (xin tham khảo thêm kinh nghiệm về vòng Thái Tuế - Tử Vi Nghiệm Lý tập 1 của cụ Thiên Lương).

Người Mệnh - Vô Chính Diệu là người hay thay đổi, là vì không có chính tinh làm nền tảng cho tính tình và cuộc đời. Nhưng đồng thời, người đó cũng có cuộc đời xét theo vị trí Mệnh. Trong trường hợp Mệnh - Vô Chính Diệu lại cần theo vị trí Mệnh theo vòng Thái Tuế mà đoán.

Như ông Nguyễn Văn Vĩnh, Mệnh - Vô Chính Diệu, cũng phải xét Mệnh có Tang Môn (trong vòng Thái Tuế), thì ông là người lo toan tính toán. Thân của ông có Bạch Hổ, ông là người cứ lao đầu làm việc, rất thực tế.

Thí dụ khác: Vua Lê Lợi - Mệnh Vô Chính Diệu, đồng thời Mệnh đóng tại Tam hợp Thái Tuế: Vua tin ở sứ mạng của mình và cứ chiến đấu, chiến đấu đến cùng.


Nguồn: KHHB- Số 74-B1 (Ngày 20/2/1974)

Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ