PHÚ TỬ VI ĐÔNG THƯ
Vân Hồ sao lục:
Người xưa học và xem, đoán Tử Vi với vài câu phú ngâm nga đơn giản, sao vẫn hay, vẫn đúng? Ngày nay, chúng ta với bộ óc phân tích, đem quá nhiều lý luận vào Tử Vi làm môn này "mọc thêm quá nhiều nguyên tắc giải đoán, kết quả chẳng hơn ngày xưa bao nhiêu, mà chỉ thêm mệt óc, chán nản.
Vậy xin đề nghị như thế này: chúng ta cứ giở tài liệu xưa kia mà nghiên cứu kỹ: thế mà lại hay. Một bài thuốc bí truyền, nếu dùng thấy hay, xin cứ để nguyên như vậy, xin đừng gia giảm quá nhiều vị khác vào làm mất tính chất hay của vị thuốc kia đi.
Tử Vi cũng vậy, xin tạm trình bày bài phú này, tóm tắt cách giải đoán 12 cung thành một loại tóm tắt, như vậy thật dễ nhớ, dễ áp dụng, đỡ phiền hà rắc rối, coi cho ai cũng được. Xin các bạn thử áp dụng bài phú 683 câu này.
Luận về số mệnh con người, có hay không có số mệnh? Quan điểm của mỗi người một khác cho nên vấn đề này còn đang trong vòng bàn cãi. Hiện có hai phe rõ rệt: một số cho rằng phàm những sự việc xảy ra trong một đời người, ngay cả đến những sự nhỏ mọn như việc ăn uống, đi lại đều có định trước. Đó là những người tin hteo thuyết tiền định. Tử Vi, Bói dịch...dựa vào lẽ số mệnh đã được an bài, định trước.
Một số khác lại không cùng quan niệm như vậy. Họ cho rằng muôn sự xảy ra chẳng qua là do luật nhân quả. Cũng như ngồi đánh một ván cờ vậy, hai người ngồi đánh cờ với nhau mà còn có ngẫu nhiên, người nọ đi một nước cờ rồi, người kia tùy theo địch thủ đánh sao rồi mới còn có thể ấn định nước cờ của mình được. Không ai ngồi vào đánh một ván cờ mà có thể biết chắc chắn được rằng thua hay thắng. Cuộc đời cũng vậy, nhân sự tùy thuộc vào biết bao biến cố ngẫu nhiên, biết thế nào mà dám đoán trước? Đó là thuyết ngẫu biến, cho rằng mọi sự, mọi vật, hình thành mà biến chuyển tùy theo các duyên ngẫu nhiên mà nên, không sao có thể định trước được.
Xét ra hai thuyết trên đều có lẽ phải. Số người tin theo mỗi thuyết cũng khá đông. Học lực chúng tôi còn kém, chưa thể hiện ra được những lý lẽ cao xa cho rằng thuyết này đúng, thuyết kia sai, chỉ xin nêu ra để mọi người cùng suy ngẫm. Được đến đâu hay đến đó. Chỉ xin ghi lại sau đây ít dòng về Phú Tử Vi mà thôi. Về bộ môn này, Trung Hoa là nước phát xuất ra trước tiên ở Á Đông. Bên Trung Đông, khoa lý số Ả - Rập (chiêm tinh) cũng dùng tinh tú để luận số mệnh người ta. Cả khoa Tử Vi của Trung Hoa và Chiêm tinh của Ả Rập, tuy xuất phát từ hai nơi riêng biệt, lại có chung một điểm đồng ý với nhau là: "phàm một người lấy số thấy thiệt hay, không phải bó buộc người đó sẽ có một cuộc đời rực rỡ, có khi còn thường hoặc kém là khác nữa. Những những bậc anh hùng cái thế, khi bấm số họ, thấy chắc chắn phải là hay".
Như vậy cả hai khoa trên đều áp dụng phương pháp nhìn tướng hoặc căn cứ vào sự nghiệp rồi mới luận số mệnh được, không bao giờ chỉ luận mệnh suông, căn cứ vào năm tháng ngày giờ không mà thôi.
Hiện chúng ta chưa đi đến chỗ tinh vi như vậy. Tuy nhiên, lấy một lá số Tử Vi theo phương pháp an sao đồng nhất mà nhiều người đã công nhận, thì khi bấm số, dù ai cũng vậy, đều có một là số như vậy. Duy có cách đoán, thì có người đoán thấp, kẻ đoán cao, tùy theo học lực và kinh nghiệm của thầy đoán, nhưng có điều chung, ai cũng phải công nhận là không thể đen đoán ra trắng, và trắng đoán ra đen được. Như vậy, tất cũng là kinh nghiệm rồi, cho nên mới tồn tại được mấy ngàn năm như vậy. Vậy xin cứ chép ra đây, ai tin thì dùng, ai không tin thì cũng xin để dùng làm tài liệu nghiên cứu một môn lý học cổ do cha ông để lại.
Phú Tử Vi Thông Thơ (683 câu):
1) Mệnh viên:
Một là bàn đến mệnh viên,
Có sao thủ mệnh đoán bên tính tình.
Tử Vi trọng hậu dung hình
Thiên Phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà,
Thiên tư ôn thuận thiệt là tốt ghê
Lòng thành tính gặp Thiên Cơ,
Vũ tinh nhập miếu, anh kỳ tài năng.
Thái Âm viên mãn ai bằng
Thiên Đồng phi mãn, tính hằng ôn lương
Phá, Liêm to nhỏ khác thường,
Tính tình cương trực, kết đường tà gian.
Thiên Lương từ hậu dung nhan
Sát - Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng.
Tham Lang bản tính thung dung
Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon
Thái Dương tính khí thực khôn
Thanh kỳ bậc nhất, từ lương khác thường
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương
Tư nhân khả ái, thông đường văn chương
Cự Môn tính khí bất thường
Hễ khi sử sự, tìm đường đảo điên.
Thiên Tướng lòng thẳng, mặt hiền
Thiên tư mỹ lệ: Khoa, Quyền hẳn hoi
Thanh bần ấy thật Việt - Khôi
Lại gia Thai Phụ là nòi khoan dung.
Phụ - Bật tuấn tú vốn dòng
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không
Phụ Bật đơn thủ mệnh cung
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà
Phượng Long đều hợp mệnh ta
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay
Tuế - Riêu họa xướng ư nhời
Khốc - Hư lòng gió là người sai ngoa
Mây mưa ấy thật Đào Hoa
Lông kia đổ kệch, Kỵ Đà xấu trông
Trán đen, tính nóng Kiếp Không
Hỏa Linh mặt mũi hình dung bi sầu
Tuế Phá lạc hãm một âu
Tiếng tăm như sấm ra màu vẻ vang
Kìa như nói chẳng há răng
Thiên Hình đơn thủ chốn đằng mệnh cung.
Lộc, Mã khéo kiêm nàn nồng
Phúc, Tấu bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn, lưng ong
Hỷ Thân dai dọng, tâm hung, tràng đầu.
Triệt, Không tính những chẳng âu
Hung trung vô định ra màu gian nan,
Tuế, Tham lòng dạ đa đoan.
Kỵ, Diêu tửu sắc, một đoàn ngao du
Hổ, Tang chẳng việc mà lo,
Quan Phù, Điếu Khách hay phô rộng nhời,
Lưỡng Hao nhỏ nhặt hình người,
Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dầu,
Quý, Ân phong độ trượng phu
Chẳng hay quân tử hình thù cũng xinh,
Tướng Quân chỉ thích dụng binh,
Bệnh Phù đới Tật trong mình chẳng không
Cô, Quả thiết kỵ riêng lòng
Tràng Sinh, Đế Vượng vốn dòng thiện lương
Đào Hoa, Mộc Dục điểm trang
Lâm Quan tính khí dịu dàng tinh anh
Mộ thì chẳng được thông minh
Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng,
Triệt mà gặp được Kim cung
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần,
Tuyệt phùng hỏa địa một khi,
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kìa Suy, Bệnh, Tử ba dòng,
Gặp vào nước ấy, ai dùng? ai mang?
Hóa Lộc tính khí dịu dàng,
Bác Sỹ tính nết tìm đường tư hoa
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa
Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là quy mô
Phá Quân tâm tính hồ đồ
Kiếp Sát xử sự ba đào mênh mông
Xem xong nhân tính đã xong
Lại tính cho thấu những cung ngũ hành
Tướng chân tính, nhận chân hình,
Chẳng nên chấp nhất, lựa mình mà suy
Ví như thuộc Thổ Tử Vi
Tính trì mà gặp hỏa thì lại nhanh
Thiên Phủ vốn tính hòa lành
Song gặp Không, Kiếp thời ranh khắc thầm
2) Phụ Mẫu cung:
Cả hai phụ mẫu kể tường
Âm Dương ngộ hãm là đường khắc xung
Hãm Dương khắc phụ đã xong
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai
Hồ, Tang, Thái Tuế cùng bầy
Lưu Dương lại gặp đoán rầy khắc cha
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa
Thiên Hình, Tuần, Triệt mẹ cha mất rồi
Cáo, Phong có chức, có ngôi
Khúc, Xương, Thái Tuế thì người cũng sang
Khôi, Khoa phát đạt khoa tràng
Khôi, Quyền chính trưởng đường đường tốt thông
Thanh bần ấy phải Hóa, Không
Nhược bằng Lộc, Mã phú ông ai tày
Phụ Mẫu cung đã đoán bầy
Đoán từng phần một, cốt hay tại người.
3) Phúc Đức cung:
Số ba phúc đức kề liền
Lộc, Quyền đóng đó trong miền bản cung
Ở đời vinh hiển đã xong
Kiếp, Không ở đấy bần cùng khốn thay.
Nay đây mai đó càng hay
Lại xem cung ấy sống rày được bao?
Đồng, Lương, Tử, Phủ bốn sao
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn
Âm, Dương, Xương, Khúc, Lộc Tồn
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh thần
Thọ thì được ngoại thất tuần
Miếu thì thong thả, ham thì tân toan,
Liêm, Cự ta lại phải bàn.
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Quyền, Khoa
Lộc, Tham, Đế Vượng thật là tràng sinh
Đà La, Dương Nhận, Hỏa Tinh
Vào thì ba bốn rành rành không sai
Kiếp, Không, Hư, Khốc cùng bầy
Thiên Hình, Hóa Kỵ mới loài bạch tang
Nhị Phù tổn thọ một phương
Thật là lạc mộ, nên dường chẳng sai
Sát, Liêm, Tứ Sát cùng bầy
Đoán làm bần yểu xưa nay rõ ràng
Cao thanh, Thọ, Quý, Ân Quang
Những là sao ấy thọ tràng kỳ di
Lại thấy Thân, Mệnh mà suy
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương
Đã xem hưởng thọ đoán tường
Lại xem phúc đức đoán phương âm phần
Tràng Sinh chính phát thập phần,
Gặp sao Quan, Phúc, Quỷ thần chầu trông
Phúc, Liêm nội ngoại thung dung
Khoa, Quyền, Xương, Khúc vốn dòng văn gia
Vũ, Tham mà gặp Hóa Khoa
Đấy là đất phát đề ra anh hùng
Cự Môn, Lộc, Lộc tương phùng
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời
Nay là đoán trước mấy lời,
Được đất nằm nghiệm chẳng sai đâu là
Lại xem hướng mạch kể ra
Trước lấy khởi tổ ấy là Tràng Sinh
Thanh Long lấy làm long hành
Đến đâu nhập đó xem hình chiếu lâm
Phải lấy chi tự (Địa Chi) phân kim
Xem cho chuẩn đích đoán tình mới ngoan
Trước có Dương Nhận, Hồng Loan
Nga mi tác án an bài chẳng sai
Thanh (Long), Hồng (Loan) thủy nhập hoài
Tùy cung mà đoán cho người mới thông
Lại như Vũ Khúc, Triệt Không
Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau
Kìa Long với Hổ lai chầu
Xem bên Tả Hữu mới hầu luận xong
Bên tả có sao Thanh Long
Lấy làm Long thủy chầu vòng tả biên
Bên hữu Bạch Hổ đã yên
Lấy làm Hổ thủy chầu bên hữu này,
Lại xem tinh tú an bầy
Thái Dương, Vũ Tướng cùng rày Phá Quân
Khoa, Quyền, Khôi, Việt tinh thần
Lấy làm dương mộ mười phần chẳng sai
Còn như đoán mã đàn bà
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời
Tử, Phụ mộ tổ chẳng sai
Lạc nhàn thì đoán xa rời mà thôi
Thiên Cơ dương tổ sáu đời
Vũ năm, Đồng tứ, chẳng sai chút nào
Liêm Trinh bảy tám đời cao
Thái Dương là bố lẽ nào chẳng tin
Cha còn thì đoán ông liền
Ấy là dương mộ đoán miền dương tinh
Thiên Phủ viễn mộ đã đành
Tham sáu, Cự bảy, Lường rành tám thôi
Phá Quân, Thất Sát xa đời
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà
Nếu còn thì kể đến bà
Ấy là âm mộ thuộc tòa âm cung
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng
Mộ phần thiên táng ắt cùng chẳng sai
Suy xem linh tính hẳn hoi
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường
Đoán rằng đạo táng gần phương mả này
Lại tùy chính diệu suy bầy
Lại nhân Không, Kiếp đoán rầy lạc phân
Hoa Cái, Phượng Các tân phần
Tấu Thư, Xương, Khúc là thần đồng ra
Hoặc Khôi, Việt gia Hóa Khoa
Đại khoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng
Ấy là phú quý vốn dòng chẳng không
Tử Vi nhập miếu vượng cung
Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ
Lương, Tham thọ khảo kỳ di
Lại xem đất phát cung phi vẻ nào
Bởi chưng Hoa Cái, Hồng, Đào
Gặp sao Tử, Nhật gái chầu quân vương
Đế Vượng đóng chính cung tường
Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh
Tuế, Phù phụng sự tương tranh
Lộc Tồn, Cô, Quả độc đinh thường thường
Tang Môn, Quả Tú bất thường
Ấy là trong họ gái thường quả phu
Phục Binh ngộ Tử phải lo
Có người bị trận chết co ngoài đường
Mộ mà cư Phúc đường đường
Lại gia Thai, Tọa ấy trường sinh ta
Hỷ Thần, Thiên Hỷ hoặc gia
Ấy là đắc địa chẳng hòa được đâu
Lại bàn hình thế mọi mầu (ngũ hành các sao)
Tổ sơn là Tử, Phủ chầu kể ra
Mộc tinh là Thiên Cơ gia
Kim tinh Vũ Khúc, Mộc là Tham Lang
Văn Khúc là thủy đáo đường
Liêm Trinh là hỏa, Thiên Lương thổ này
Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm
Thất Sát cùng Hỏa tinh lâm
Phá Quân là thủy, Cự tầm thổ tinh
Thiên Đồng, Thiên Tướng đất binh
Sao Dương là núi, sao Linh bút bầy
Mộc, Trì là giếng gần đây
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần
Kiếp, Không lộ táng dương phần,
Kỵ, Riêu là thủy, sát nhân hoàng tuyền
Thanh Long có suối lưu triền
Bạch Hổ đá trắng ở bên mộ đường
Khoa, Quyền là bản văn chương
Lộc: kỳ, Việt: kiếm, rõ ràng đóng đây
Ấy là phần mộ đoán bầy
Cốt xem Phúc đức mới hay mọi đường.
4) Điền Trạch cung:
Bốn là bàn đến cung Điền
Phủ, Vi đóng đấy, Tài Điền vượng thay
Vũ, Cơ tài sản cũng hay
Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen
Âm, Dương miếu ấy đa điền
Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân
Thiên Đồng hậu dị, tiêu nan
Tham Lang tổ nghiệp phá tan lại thành
Cự Môn tổ nghiệp tan tành
Sinh ra đổi chác sau rành được yên
Sát sinh bỗng chốc mà lên
Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường
Phá Quân của khéo dở dang
Nhược bằng ngộ hãm là phường khó khăn
Tướng, Lương, Tả, Hữu khoa văn
Việt, Khôi, Quyền, Lộc, Mã gần Trường Sinh
Điền viên đế vượng tậu tành
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Đà, Kình lục tinh
Nhị Hao, Kiếp Sát, Phục Binh
Không Vong, Tang, Tứ, Phù tinh vô điền
5) Quan Lộc cung:
Năm là quan lộc đoán ngay,
Thái Dương, Xương, Khúc ở đây cung này
Điện rồng chầu trực đêm ngày
Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Cơ, Lương
Khoa, Quyền, Tử, Phủ họp cùng Trường Sinh
Tướng, Đồng, Lộc, Mã, Vũ tinh
Đều là cát tú được mình hiển vinh
Âm, Dương, Quyền, Lộc được rành
Như đành hãm địa ắt thành lại hao
Liêm Trinh vũ chức, quyền cao
Như bằng ngộ hãm, khỏi nào hình danh
Tham Lang mà gặp Hỏa, Linh
Miếu thì phú quý, hãm bình mà thôi
Sát, Cự tý ngọ ở ngôi
Vượng thì vũ chức, hãm thời hình thương
Phá Quân lao khổ trăm đường
Nhược ngồi tý, ngọ tài thường vượng thay
Tham Lang, Xương, Khúc ngày rày
Ngộ cung tỵ hợi quan này, làm ru
Liêm, Tham, Đà, Nhận phải lo
Phải mang dan díu, quanh co bận mình
Phù, Tang, Không, Kiếp, Hỏa, Linh
Khốc, Hư, Đà, Nhận, Kiếp, Kình, Nhị Hao
Phục Binh, Phá, Tú xúm vào
Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn
6) Nô Bộc cung:
Sáu là nô bộc đoán tường
Tử, Phủ, Tả, Hữu, Âm, Dương, Lương, Đồng
Việt, Khôi, Tam Hóa tương phùng
Cáo, Loan, Cơ, Mã lại cùng Tướng tinh
Quý, Quang, Xương, Khúc cũng lành
Vũ tinh mà đóng rành rành bản cung
No thì nó ở hầu ông
Đói thì nó bước chẳng mong nỗi gì
Liêm Trinh kia nó càng ghê
Làm ơn nên oán bấc chì mỉa mai
Tham Lang vì nó hao tài
Cự Môn báo oán những lời thị phi
Sát thì sinh sự thị phi
7) Thiên Di cung:
Bảy là bàn đến Thiên Di
Lộc Tồn, Hóa Lộc tốt thì hòa hai
Vũ, Lương cự phú chẳng sai
Khúc, Xương, Tử, Phủ, Việt, Khôi, Khoa, Quyền
Âm Dương, Tả Hữu rất hiền
Cùng là Đồng, Tướng gần miền quý nhân
Thiên Cơ lẩn thẩn, khốn thân
Nhược bằng ngộ cát, mười phần tốt thay
Liêm Trinh nội trở, ngoại bay
Đi thì cũng lợi, mời tày Tham Lang
Lại thêm dâm dục, hoang tàn
Vũ tinh xuất ngoại thường thường được yên
Cự Môn khẩu thiệt đảo điên
Nhị Phù, Phá, Tú cùng miền Thiên Di
Đoán rằng lộ thượng mai thi
Phá Quân, Thất Sát ắt thì chẳng yên
Tham Lang, Hóa Kỵ hợp miền
Quán rằng lộ tử, chẳng tuyền được đâu
Cự Môn, Linh, Hỏa xung nhau
Tử ư đạo mộ ra mầu xo ro,
Liêm phùng Quan Phủ, Quan Phù
Ấy là tử nghiệp chẳng hòa được đâu
Kìa như đạo lộ phải âu
Bởi Liêm, Sát, Phá vào hầu Thiên Di
Kìa ai ký ngụ, phong tư (đời sương gió)
Bởi chưng Thất Sát, Nhị Phù, Kình Dương
Tứ Sát đóng chính cung tường
Ách nguy thêm lại hại đường tổ tông
Vũ, Liêm chẳng khá đồng cung
Luận rằng số ấy bần cùng đi qua
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Dương, Đà
Tham, Hình, Hóa Kỵ cùng là Khốc Hư
Phá Quân phương ấy chẳng lo
Thiên Di cung ấy đoán cho kỹ càng
8) Tật Ách cung:
Tám là Tật Ách chẳng âu
Âm, Dương phản bội làm màu bất minh
Mệnh cung lại có Không tinh
Nhãn manh mục tật, rành rành phải mang
Phá, Liêm, Hình, Kỵ, Đà, Dương
Đã đau bên mắt, lại càng bệnh điên
Khúc, Xương, Tả, Hữu vào miền
Việt, Khôi, Tử, Phủ, Khoa, Quyền, Đồng, Lương
Lộc Tồn, Hóa Lộc một phương
Ốm thì gặp thuốc thang sợ gì
Thiên Cơ phải chứng thấp tê
Nhược bằng gia Sát mặt thì vết ngan
Phong đàm bệnh ấy liền liền
Bởi sao Cơ, Vũ đóng miền Ách phương
Nhược bằng gia Sát trĩ sang
Thái Âm đau bụng, Thái Dương buốt đầu
Gia Đà, Kỵ, Sát cũng rầu
Đoán rằng mục tật, ấy hầu phải đau
Phá Quân khí huyết bất điều
Đồng, Lương hàn nhiệt là điều phải lo
Tướng Tinh đau ở bì phu
Cự, Liêm, Nhật, Nguyệt hình thù cơ nghinh
Đà La, Dương Nhận ít yên
Đau chân nhức mắt, chẳng hiền được đâu
Dương, Đà, Phá, Kỵ mắt đau
Bởi đường sao ấy gặp hầu Tham Lang
Sát Tinh thấp khí yếu đau
Tứ Sát có bệnh bởi hầu Sát gia
Tham Lang tật ách xông pha
Lưng, chân có bệnh chẳng hòa được chăng
Cự Môn mặt vết rõ ràng
Chứ chi đới tật, xấu chàng hổ ai
Kỵ, Hình đau mắt chẳng sai
Dương, Đà, Linh, Hỏa cùng ngồi một phương
Mặt kia có vết rõ ràng
Lại thêm bệnh trĩ thường thường phải e
Nguồn: KHHB - số Xuân 75
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)
Bài viết liên quan
Giáo Sư Nguyễn Văn Bông Thực Là Một Nhân Tài Đáng Tiếc
Lá Số & Cuộc Đời Của Nữ Nghệ Sĩ Bích Huyền
Hai Vị Chúa Tể Đáng Sợ Trên Lá Số: Tuần & Triệt
Những Câu Phú Tử Vi Ứng Nghiệm Thế Nào? Đẩu Quân Ở Tử Tức; Nhật Nguyệt Đồng Minh Sửu Mùi...
Thuyết Nhân Quả Căn Bản Giải Thích Tử Vi
Ý Nghĩa Đặc Biệt Của Vòng Tràng Sinh Trong Lý Học Đông Phương