Hai sao này đều là Tứ Sát tinh, vô cùng hung hiểm, nhập vào bất kỳ cung nào trong 12 cung cũng đều mang ý nghĩa không tốt.
Sự khác biệt:
Kình Dương có tính nóng nảy, sự việc xảy ra nhanh chóng, dễ gây thương tích cho cơ thể và để lại sẹo. Người này thường không giữ được bình tĩnh.
Đà La có tính chậm chạp, sự việc xảy ra từ từ, dễ mắc các bệnh mãn tính khó chữa. Người này thường không vội vàng, "bạn vội tôi không vội".
Nếu có từ hai sao trở lên trong số Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ nhập Mệnh, người đó chắc chắn không phải người lương thiện, sự nghiệp không thuận lợi, tai họa, bệnh tật thường xuyên, hoặc không được chết yên lành, hoặc có tai họa tù tội. Nếu sao chính thất hãm hoặc là sao xấu, thì càng hung hiểm, chắc chắn là số chết yểu, chết dữ. Nếu lại gặp Thiên Hình, Phá Toái, thì chết không toàn thây. Gặp trong hạn, lưu niên, chủ về tai họa bất ngờ, tai nạn. Nếu sao chính miếu vượng hoặc nhiều cát tinh, có thể được cải thiện, nhưng vẫn có những điểm bất lợi.
◇ “Dương Đà Linh Tinh, chủ tao đao binh”:
Ba sao này hội hợp ở cung Mệnh, hoặc đi vào hạn, chủ về tai họa đao binh, được Tử Vi, Lộc, Mã có thể cứu giải.
Kình Dương, Đà La ở cung hãm, tính hung hăng giảm đi đáng kể, làm việc không dùng vũ lực mà chuyển sang nói dối, lừa gạt.
Kình Dương, Đà La thủ Mệnh, Thân, chủ về lưng gù, khó hòa hợp, nhân duyên kém. Ở Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi), chủ về phát nhanh tàn nhanh, hễ gặp vận tốt thì đột nhiên giàu có, nổi danh chỉ sau một đêm; gặp vận xấu thì bại vong nhanh chóng. Thêm hoặc hội chiếu Hỏa, Linh, tính tình nóng nảy, bốc đồng, không suy nghĩ hậu quả, lúc nhỏ nhiều tai họa, bệnh tật, bị phá tướng, tàn tật, còn phải đề phòng kiện tụng, tù tội. Ở đất miếu vượng, gặp cát thì phát tài, gặp hung thì hung hiểm, cô độc, nghèo khổ. Hãm địa thủ Mệnh, đồng cung với Hóa Kỵ, thêm hoặc hội chiếu Hỏa, Linh, chắc chắn có tai họa tù tội; hoặc đồng cung với các sao Sát, Phá, Liêm, Tham, Cự, Vũ, cũng là dấu hiệu phạm tội, vào tù, và đầu mặt, tay chân có thương tích.
Kình Dương, Đà La, Tham, Phá, lưu niên gặp, phạm tù tội; hai hạn gặp, chủ về tai họa bất ngờ, tai nạn đổ máu.
◇ Dương Đà kẹp Kỵ vi bại cục:
Ví dụ an Mệnh ở Thân, có Hóa Kỵ, gặp Kình Dương ở cung Dậu, Đà La ở cung Mùi kẹp lại. Hai hạn đi đến đây chắc chắn là hung. Chủ về tai họa, bệnh tật, phá bại, cô độc, nghèo hèn. Mệnh có Hóa Kỵ hoặc Hỏa, Linh, chắc chắn có tai họa, kiện tụng.
Sao Kình Dương:
Kình Dương thuộc Kim Canh, Dương, lại mang tính Hỏa, có tính chất "lửa luyện kim", do đó tốt thì thành công, xấu thì bị giày vò. Là sao Phù tinh của Bắc Đẩu, chủ về hung hiểm, hóa khí là “Hình”, là một trong Tứ Sát, chủ về hình phạt, thương tích, tai họa, khắc lục thân. Mang tính chất quá khích, có tính sát thương và tấn công, sức phá hoại rất mạnh, dễ làm lung lay nền móng, là sao ương ngạnh, hung tàn. Đại diện cho tiểu nhân thật, mũi tên sáng (sự tấn công rõ ràng, tiểu nhân rõ ràng), sự tổn thương, tai họa, đổ máu, thị phi, phẫu thuật, đao kiếm, trẻ mồ côi, góa phụ, đấu tranh, cướp giật, ức hiếp, bá đạo, va chạm, bạo lực.
Miếu địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, hãm địa ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Thích hợp với người sinh năm phía Tây, Bắc, hoặc người sinh năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Khi là sao chính của cung Mệnh, mặt đỏ trắng, mặt chữ Giáp hoặc tròn dài, vóc người trung bình, hơi cao, hình dáng thô kệch, đàng hoàng. Miếu vượng thì béo, thô, thất hãm thì gầy, nhỏ, hơi gù lưng. Dễ bị thương tật, phá tướng, đầu mặt, tứ chi có sẹo, hoặc có đốm, tàn nhang, mắt mờ, mặt rỗ. Vết thương ngoài da thường ở đầu mặt, tay phải, chân phải hoặc mù mắt.
Độc thủ cung Mệnh, tính cách cương cường, kiên nghị, có mưu lược, có ý chí chiến đấu không ngừng nghỉ, có sức mạnh khai phá, tích cực làm việc, xử lý công việc dứt khoát, không dây dưa. Cứng đầu, thô bạo, ngang bướng, hung hãn, nóng nảy, dễ bốc đồng, tự cho mình là đúng, liều lĩnh, không chấp nhận ý kiến của người khác, khăng khăng làm theo ý mình, thích đầu cơ, cờ bạc, không chịu thua, hiếu thắng, hiếu chiến, hung ác, tàn bạo, cô độc, kiêu ngạo, hay gây chuyện thị phi, dễ xảy ra tranh chấp, xung đột, gian xảo, bất nhân, lục thân xa cách, hôn nhân không thuận lợi, tình cảm nhạy cảm, thiếu tầm nhìn, sống theo cảm tính, thích làm việc lớn, gần gũi với kẻ xấu, dám yêu dám hận, từ yêu sinh hận, trở ơn thành oán, lòng thù hận và báo thù mạnh mẽ, tính nổi loạn mạnh. Dễ lập công danh bất ngờ, có thể cướp quyền của người quân tử.
Kình Dương là sao của thị phi, mang khuôn mặt khổ bẩm sinh, thường đi kèm với phiền não (tự tìm đến), liên quan đến tranh chấp (tranh chấp tài sản), cả đời không thuận lợi, tha hương cầu thực, phát nhanh tàn nhanh, dễ gặp tai họa, phá tướng, hình thương (hãm địa nghiêm trọng hơn), cũng chủ về vợ chồng tính cách không hợp. Đồng cung thủ Mệnh với các sao Sát, Phá, Lang, Vũ, Liêm, Cự, lòng dạ độc ác, gan to tày trời, dễ có kiện tụng, tù tội, và đầu mặt, tay chân tàn tật, không được chết yên lành. Hãm địa hoặc hội chiếu Hỏa, Linh, Kỵ càng hung hiểm, xuất gia, tu hành có thể tránh được. Hội hợp Tả, Hữu, Xương, Khúc, có nốt ruồi lạ hoặc vết đốm; hội Tả, Hữu, dễ bị người khác hãm hại, tổn thất nặng. Hội Hỏa, Kỵ, Không, Kiếp, thì tàn tật, phá sản, rời xa quê hương, khắc lục thân. Đồng cung với Hỏa, Linh, không tàn tật thì cô độc, khắc lục thân. Đồng cung với Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, chủ về lưng gù, tai họa, bệnh tật, khắc cực nặng. Thêm Không, Kiếp, sự nghiệp không thuận, nghèo khó, chết yểu; hãm địa càng hung. Hội hợp Nhật, Nguyệt, nam nữ đều khắc cha mẹ, con cái, nam khắc vợ, nữ khắc chồng, lục thân bất lợi, tiền bạc không tụ; thêm Hóa Kỵ, chắc chắn tổn thương người thân, mù mắt, tai họa, bệnh tật ở đầu.
Ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, tính cách cương cường, quyết đoán, có uy quyền, mưu lược, làm việc dễ thành công, hiệu quả cao. Được các cát tinh củng chiếu, phú quý, danh tiếng vang xa. Người sinh năm Tây Bắc (Tuất, Hợi) và Tứ Mộ, phần lớn chủ về lập công danh bất ngờ, quyền cao chức trọng, nhưng phần lớn phải xa quê hương lập nghiệp, trước vất vả sau mới có phúc, vất vả hơn, không có người thân nương tựa.
Ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu, gây tai họa, hoạn nạn, khắc cực nặng, nhiều tai họa, khó khăn, mắt mờ, tàn tật. Bẩm sinh có ý thức phạm tội, không bị hình thương thì chết yểu (có cát không luận), cung Ngọ hung nhất, Mão thứ hai, Dậu, Tý thứ ba. Người sinh năm Giáp chắc chắn có tai họa, dù phú quý cũng không bền, tàn tật kèm mắt mờ, là người cô độc, không giữ được tổ nghiệp, không được chết yên lành.
Thủ Mệnh ở Dần, Thân, người sinh năm Giáp, Canh, chủ về cô độc, không giữ được tổ nghiệp, hoặc là con của hai họ, sống bằng tài nghệ.
Nhập cung Thân, thường vô cớ rơi vào phiền não, cả đời không thuận lợi, ba chìm bảy nổi, khúc chiết, tha hương cầu thực; gặp Hỏa, Kỵ, Không, Kiếp, Sát, Phá, chủ về xa quê, khắc lục thân.
▲ Nữ mệnh:
Nhập miếu thêm cát, dù có quyền quý, cũng không được trọn vẹn, không tránh khỏi sự hình khắc. Hãm địa chủ về hèn mọn, lại gặp các sát tinh khác thì phần lớn là hình khắc, là cách thấp kém, khắc chồng, con, cô độc, phá tướng, chết yểu; thêm Hỏa, Linh, Kỵ, phần lớn là hình phạt nặng, độc ác, dâm đãng, hèn mọn.
◇ “Dương Hỏa đồng cung, uy quyền áp chúng”:
Hai sao này đồng cư Tứ Mộ thủ Mệnh, lửa luyện kim, lấy ác chế ác mà hóa tốt, sự kích động công khai mang lại lợi lộc, trước khổ sau ngọt, người này văn võ song toàn, uy quyền hơn người, nắm binh quyền. Ở cung Sửu là tốt nhất, Tuất thứ hai, Mùi thứ ba, Thìn thứ tư. Gặp người sinh năm Tây Bắc càng đẹp, người sinh năm khác thì không tốt. Ở hãm địa thì hung, người sinh Tứ Mộ và Tây Bắc thì tai họa nhẹ hơn. Phần lớn làm võ chức hiển hách, nếu có Tham, Vũ đồng hành thì càng tốt. Nếu không có sao chính miếu địa đồng hành, dù chủ về võ quý, nhưng sự hình khắc cũng rất nặng, cần đề phòng chết dữ. Gặp Bạch Hổ, Quan Phù, Xương, Khúc, Kỵ, Thiên Cơ, Thất Sát, Phá Quân, phần lớn là kẻ cướp của, giết người.
Sao Đà La:
Đà La thuộc Kim Tân, Âm, lại mang tính Hỏa, có tính chất "lửa luyện kim", do đó tốt thì thành công, xấu thì bị giày vò. Là trợ tinh của Bắc Đẩu, chủ về hung hiểm, hóa khí là “Kỵ” (chữ Kỵ ở đây mang ý nghĩa đố kỵ, là tính chất vốn có của sao này như thất vọng, trở ngại, sa đọa, thị phi, tâm thuật bất chính, nham hiểm, gian xảo, hối hận, đau buồn, liều lĩnh, bệnh tật, tai họa v.v., nguyên nhân phần lớn đến từ bản thân, là người tạo ra thị phi; còn Hóa Kỵ là hình ảnh sao chính hóa hung, nhiều thị phi, trở ngại, không hoàn hảo, bị đánh đập, thất bại, phần lớn đến từ bên ngoài), chủ về kéo dài, chậm trễ, ghen tị, cố chấp, thị phi. Là mũi tên ẩn (tiểu nhân ngấm ngầm), sự tổn hại đến từ trong bóng tối, khó nhận biết để phòng tránh, thường gây hậu quả bất lợi, và kéo dài một thời gian. Là sao xe cộ, sao giao thông, đại diện cho xe cộ, lốp xe. Trong vật thể là các vật hình cầu, vật quay. Sao này ở cung nào, sự việc ở cung đó sẽ bị kéo dài, chậm trễ, không hoàn thành theo kế hoạch, nhiều sự trì hoãn. Hãm địa ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi, miếu địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Khi là sao chính của cung Mệnh, mặt xanh trắng, mặt tròn vuông, vóc người trung bình, hơi thấp, gò má rộng. Nhập miếu thì béo, thất hãm thì vẫn hơi béo, có thương tật, phá tướng hoặc sẹo ở môi, răng không đều. Vết thương ngoài da thường ở tay trái, chân trái, đi đứng xiêu vẹo, hơi gù lưng. Thân hình khỏe mạnh, thô kệch, có dáng vẻ lẳng lơ, trên dưới không cân đối.
Tính cách kỳ quái, bướng bỉnh, trầm ổn, cẩn trọng, dũng cảm đổi mới, có thể đối mặt với thay đổi và thất bại một cách bình thản, kiên trì không ngừng, nỗ lực tiến lên. Tự cho mình là đúng, dễ giận dữ, thay đổi thất thường, cô độc, không hòa đồng, có tính hiếu chiến, thường có tranh chấp, thị phi, không giữ chữ tín, cằn nhằn, nói lời khoa trương, có thói quen lừa gạt; thích làm những việc không chính đáng, thích hành động trong bóng tối, mưu đồ, quỷ kế, âm thầm ghi hận; có tính bám dai, làm gì cũng phải hỏi đến tận cùng, không ngại học hỏi người thấp hơn; không giữ được tổ nghiệp, cả đời phiêu bạt, chạy đông chạy tây, tranh chấp không ngừng, âm thầm rơi lệ; tính gian xảo, giả dối, giỏi tính toán, tâm thuật bất chính, tính nổi loạn mạnh, làm việc lười biếng, do dự, chần chừ, tiến thoái lưỡng nan, có đầu không có cuối, phát nhanh tàn nhanh. Miếu vượng thì uy mãnh, cương liệt, có mưu lược, quả cảm, có tài năng.
Độc thủ Mệnh, Thân, chủ về cô độc, góa bụa, bỏ tổ nghiệp ra ngoài lập nghiệp, sống bằng tài nghệ, có thể làm kỹ thuật, lao động chân tay, có lợi cho võ chức hiển hách; văn nhân thì không tốt, phát cũng không bền; cả đời bôn ba, nhiều trắc trở, xa quê hương thì tốt hơn, nếu không khó phát triển, và nhiều tai nạn; nhiều kiện tụng, thị phi, gia đạo bất hòa, có số tù tội, thường đi kèm với tranh chấp, có nỗi khổ tinh thần lâu dài; lúc nhỏ nhiều tai họa, nhiều mụn nhọt, lở loét, khi lớn cũng dễ có tai nạn về gân cốt. Lại gặp các sao hung như Liêm, Cự, Dương, Hình, tàn tật, mang bệnh, duyên lục thân mỏng, khắc vợ, con, làm con nuôi hoặc ở rể, con của hai họ. Hãm địa, chắc chắn phá tướng hoặc xấu xí, nếu không nghèo hèn, tàn tật thì cũng vào tù, thậm chí chết yểu; chủ về lúc nhỏ khó nuôi, người trưởng thành bị hình thương; nếu có thể rời tổ nghiệp ra ngoài lập gia đình thì tốt hơn; gặp cát tinh củng chiếu thì tai họa nhẹ hơn, nhiều cát cũng có phú quý, cung Tỵ thì tốt hơn, nhưng khó tránh phá tướng; hội hợp các Sát tinh khác hoặc Sát, Phá, Liêm, chắc chắn vợ con ly tán, cô độc, không nơi nương tựa (nên xem cả cung Phu Thê và cung Tử Tức, nếu cả hai đều không tốt thì mới đúng).
Nguồn: Blog 360Doc