By Tử Vi Chân Cơ|
10:59 19/10/2025|
Bài Viết Sưu Tầm
Sao Thiên Đồng
▲Giải thích về sao: Thiên Đồng thuộc Thủy Nhâm, tượng là Dương, là ngôi sao thứ tư của chòm Nam Đẩu, hóa khí là Phúc, là chủ quản của Phúc Đức. Sao này có khả năng tăng tuổi thọ, bảo vệ sự sống, biến hung thành cát. Nếu không bị phá, ắt là cát tường, gặp sao tốt thì sống lâu. Thời xưa, sao này là quan chuyên sắp xếp tiệc tùng, chủ về giải trí và hưởng thụ. Chủ màu đen, sinh con trai. Là sao tụ hợp, mở rộng ý nghĩa là cùng với trời và người mà vui vẻ, cùng đường, cùng chí hướng. Đại diện cho sự dung hòa, hiền lành, là ngôi sao hiền hòa nhất trong tử vi. Thích nhập cung Lục Thân, chủ về tình cảm giữa các bên tốt đẹp. Nhập cung Mệnh thì hợp với nữ mệnh, không hợp với nam mệnh. Nhân vật đại diện là Chu Văn Vương.
Thiên Đồng và Thái Âm đều thích hưởng lạc, Thiên Đồng thích sự náo nhiệt, phô trương, còn Thái Âm thì thích tự mình đắm chìm, không thích phô trương.
Sự hưởng thụ của Thiên Đồng khác với Tham Lang. Thiên Đồng là sự lười biếng, ghét lao động một cách tự nhiên. Sở thích văn nghệ là xuất phát từ sự yêu thích, hưởng thụ của bản thân. Thích ăn uống, vui chơi, có chút phong thái văn nghệ. Sự hưởng thụ của Tham Lang thì xuất phát từ giao tiếp, xã giao, thiên về tửu sắc, tài khí và dục vọng vật chất.
Phúc và khả năng hóa giải tai họa của Thiên Đồng phải trải qua một quá trình trắc trở mới có được sự ổn định và hưởng thụ. Thiên Đồng mang ý nghĩa "trước khổ sau ngọt", "trước khó sau dễ". Phải có tai họa trước rồi sau đó mới được hóa giải, gặp hung trước rồi mới được hóa giải. Khả năng hóa giải hung họa không bằng Thiên Lương.
▲ Dung mạo: Khi nhập cung Mệnh, thời niên thiếu mặt trắng mịn, về già thì trắng vàng. Khuôn mặt vuông tròn, hai má đầy đặn. Khi miếu địa hoặc thêm sao tốt thì thân hình cao lớn, béo tốt. Khi hãm địa hoặc thêm Sát tinh thì thân hình trung bình, thấp bé hoặc gầy. Nếu không có sao tốt hay xấu thì đa số hơi mập. Dung mạo phúc hậu, lông mày thanh tú, mắt sáng, mắt phượng dài, dung mạo đoan chính, môi dày, răng đều, có hai cằm. Đồng cung với Sát tinh thì bị phá tướng. Đồng cung với Hỏa Tinh, Linh Tinh thì trên mặt có nhiều nốt ruồi, nốt đồi mồi. Nếu thêm Cự Môn thì trên mặt có nốt ruồi khác lạ, vết nám. Đồng cung với Đà La thì mắt nhỏ, lác. Đồng cung với Không Kiếp thì tướng cô hàn, đơn bạc. Đặc điểm nổi bật: thân hình đầy đặn, lạc quan, vẻ ngoài giống trẻ con, mang lại cảm giác ngây thơ, dịu dàng. Đầu càng to thì mệnh càng tốt.
▲ Tính tình, tài năng: Tính tình ôn hòa, từ thiện, dễ tính, liêm khiết, dễ gần, không quá kích động, nội tâm bảo thủ. Bề ngoài bình hòa nhưng bên trong nóng nảy. Thích giúp đỡ người khác, thích chia sẻ niềm vui với mọi người, dễ gần, ít khi nổi nóng, nếu có thì cũng qua rất nhanh. Có đức tính khiêm nhường, thích dùng cách hòa bình để giải quyết vấn đề, thà chịu thiệt thòi còn hơn làm mất lòng người khác. Không gây thù chuốc oán, không tranh giành với đời, không tranh giành danh lợi, quyền thế, vì vậy ít xung đột với người khác. Đối xử với mọi người khiêm tốn, lễ độ, không câu nệ tiểu tiết, thường được mọi người yêu quý. Thích các hoạt động xã giao, quan hệ rộng, tích cực làm việc thiện. Là người dễ dãi, không phân biệt tốt xấu, quá nhu nhược.
Thiên Đồng là sao Phúc, nghĩa là giải trí hưởng thụ. Khi nhập cung Mệnh, không nhất định có phúc phận, nhưng sẽ chú trọng đến chất lượng cuộc sống và sự hưởng thụ về tinh thần lẫn vật chất. Có thể tìm thấy niềm vui trong nghịch cảnh, bẩm sinh lạc quan, bên ngoài không thấy vẻ u sầu, cả đời an lành, vui vẻ. Thích cuộc sống nhàn hạ, không gò bó. Ngay cả khi nghèo khó cũng biết đủ mà vui, mang lại cảm giác phúc hậu và nho nhã. Nhược điểm là thích an nhàn, ghét lao động, lười biếng, lãng phí. Thích ăn uống, vui chơi, vì vậy tạo cảm giác lười biếng. Nhưng người lười có cái phúc của người lười, dễ được người khác giúp đỡ. Những việc cần lao tâm khổ tứ thường có người làm thay, cơm áo không thiếu, ngồi hưởng thành quả. Thiên Đồng còn là sao trẻ con, tính khí trẻ con, ngây thơ. Nếu thêm Sát tinh thì dễ bị lừa gạt.
Người có Thiên Đồng nhập Mệnh, hiếu học, hiếu hỏi, có sở thích rộng rãi. Nhưng "trước siêng sau lười", không đủ chuyên tâm, khi học bài, làm việc thường làm nhiều thứ khác. Tài năng đa dạng nhưng không chuyên sâu, trí nhớ cũng không tốt. Không có ý chí tiến thủ, ý chí tiêu cực, mọi việc đều ỷ lại vào người khác, lười biếng, sống qua ngày, việc gấp thì làm từ từ. Không tích cực, chủ động, thích mơ mộng, nói suông, lý tưởng cao nhưng không muốn hành động. Thường chỉ khi gặp thất bại hoặc bị hoàn cảnh ép buộc, không thể không làm mới chịu bắt tay vào làm và phấn đấu. Bảo thủ, nhu nhược, không có ý chí sáng tạo, thiếu kiên nhẫn, thiếu chính kiến, làm việc hay lo lắng, có cơ hội cũng không biết nắm bắt. Dù làm gì cũng không phải là người có thành tựu lớn. Khả năng tự kiềm chế kém, do dự, cảm xúc thay đổi thất thường (sự thay đổi này nhanh và không che giấu), dễ mềm lòng, dễ bị ảnh hưởng bởi bên ngoài (đặc biệt là lục thân), vì vậy làm việc hay thay đổi, kế hoạch thường xuyên bị thay đổi. Người có Thiên Đồng nhập Mệnh, khó thừa kế sản nghiệp của tổ tiên, cha mẹ. Là người tự lập nghiệp, sự nghiệp và tài sản từ không đến có, "trước khó sau dễ". Do sở thích nhàn nhã, khá giỏi văn chương, có năng khiếu nghệ thuật, thích làm vườn, thư pháp, nghệ thuật và ngũ thuật, trong những lĩnh vực này dễ có tài năng đặc biệt và thành tựu cao.
Thiên Đồng vượng vào mùa thu đông, người sinh vào mùa thu đông và trời mưa tốt hơn người sinh vào mùa xuân hè và trời nắng.
▲ Sự kết hợp: Thiên Đồng quá đa cảm, dễ bị ảnh hưởng bởi các sao khác. Gặp Lục Cát Tinh, đặc biệt là Xương Khúc, tuy có phúc hưởng thụ, nhưng lại tăng thêm tính thích an nhàn, ghét lao động và tính ỷ lại. Hễ có chút thành tựu là lại ham mê hưởng thụ. Thiên Đồng thích Hóa Quyền và gặp chút Sát tinh hoặc Hóa Kỵ (thích gặp Kình Dương, nhưng đồng cung thì dễ bị tổn thương) để kích thích. Đặc biệt là khi tam phương có Khoa Quyền Lộc, có thể thay đổi tính lười biếng của nó. Ngược lại, trở nên có ý chí mạnh mẽ, có ý chí tiến thủ, tuy vất vả nhưng có thành tựu. Khi vận hạn tốt có thể có thành tựu lớn. Nhưng nếu Sát, Hình, Kỵ nặng thì không tốt, chủ về tinh thần phiền muộn, nhiều bệnh về thần kinh. Mệnh cục ban đầu không có Sát tinh thì thích đi vào hạn có Thất Sát và Tứ Sát để được kích thích.
Khi ở miếu vượng, không sợ các hung tinh đồng cung, không sợ Không Kiếp xâm phạm (nghĩa là so với các sao khác, hoặc xét về phương diện kích thích ý chí chiến đấu). Nhưng chỉ khi có Hóa Lộc, Lộc Tồn và các sao tốt thì mới cát. Ngược lại, trong điều kiện bình thường, gặp Sát tinh, dù có cách cục tốt, cũng chủ về phải trải qua gian nan, nguy hiểm rồi sau đó mới có phúc hưởng thụ và ổn định, hoặc có tai ương, bệnh tật. Gặp Sát tinh, tuy không có tai họa lớn, nhưng cũng chủ về vất vả và bình thường.
Khi thất hãm thì giảm phúc. Thêm sao tốt cũng có thể giàu có. Thêm Tứ Sát Hóa Kỵ, có khả năng bị phá tướng, tai nạn đổ máu, phẫu thuật. Ngược lại thì có một đống bệnh lặt vặt, sống lâu nhưng mang bệnh. Thêm Kình Dương thì chắc chắn có tai nạn đổ máu, hình thương, tổn thương chân tay. Đồng cung với Không Kiếp thì bình thường, cô độc và vất vả.
Thiên Đồng kỵ gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh, đặc biệt là Linh Tinh. Vì cương nhu đối lập, khí chất xung đột, gặp nhiều nghịch cảnh, lục thân duyên kém, trên mặt có nhiều nốt ruồi. Nữ mệnh cung Phu Thê không tốt thì ý chí bạc nhược, dễ sa ngã. Gặp Không Kiếp, Không Vong, hay mơ mộng, ít hành động, làm việc bỏ dở giữa chừng. Nếu làm các ngành kỹ thuật, công nghệ, ngũ thuật thì tốt hơn.
Thiên Đồng thêm Kình Dương, cả đời dễ có tai nạn đổ máu và hình thương. Thêm Đà La, thân hình béo phì, không cân đối, mắt nhỏ, lác, dễ mắc bệnh về mắt, cận thị. Ý chí bạc nhược, làm việc trì trệ.
Thiên Đồng hội Cơ Nguyệt Đồng Lương ở tam phương, thiên về làm thuê cho người khác. Có sao tốt, không có Sát tinh, chủ về giàu sang, sống lâu. Tứ Sát hội tụ, chỉ chủ về nhiều bệnh tật, không đến nỗi chết yểu. Vận hạn gặp các sao này cũng tương tự. Nhưng sợ nhất là Hóa Kỵ gặp song Kình (Kình Dương ở Mệnh và Kình Dương của năm hạn) thêm Không Kiếp thì có nguy hiểm đến tính mạng. Thiên Đồng thêm Thiên Lương, hoặc Thiên Cơ và Thiên Đồng thủ Mệnh Thân, thường làm các ngành tôn giáo, từ thiện, nghệ thuật. Gặp Không Kiếp, Không Vong, lại không có sao Lộc Mã tốt đến hội chiếu thì hay mơ mộng, cô độc, nghèo khó, bất mãn với xã hội, trốn tránh thực tế, chuyển sang làm các ngành tôn giáo, ngũ thuật, thủ công. Hoặc sao tốt ít thêm Sát tinh, cuối đời quy y cửa Phật, hoặc tin theo Phật, Đạo, ngũ thuật.
Thiên Đồng thích hội Khôi Việt, cả đời có nhiều cơ hội. Gặp Tả Phụ, Hữu Bật thì được nhiều người giúp đỡ, sự nghiệp ổn định. Nhưng lại tăng thêm tính ỷ lại và không có ý chí sáng tạo.
Thiên Đồng Xương Khúc đồng cung hoặc hội chiếu, tăng thêm sự thông minh, tài trí. Nhàn nhã, nho nhã, học rộng, tài năng. Nổi tiếng trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng lại chú trọng hưởng thụ tinh thần, trở nên càng nhu nhược, tinh thần trống rỗng (mang tính tư lự, mơ mộng nhiều, làm ít). Lúc này cũng thích có chút Sát tinh để kích thích ý chí chiến đấu, đạt được thành công trong sự nghiệp. Thêm Đào Hoa tinh thì càng phong lưu, lãng mạn.
Thiên Đồng thích đồng cung với Lộc Tồn, chủ về giàu có. Để phá vỡ thế kẹp của Kình Đà, có ý chí tiến thủ hơn. Không thích chỉ thấy Thiên Mã, thường ý chí bạc nhược, mơ mộng viển vông, thiếu thực tế. Ngay cả khi gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền thì ý chí cũng không đủ mạnh.
Gặp Hóa Lộc, tăng tài lộc, có nhiều cơ hội bất ngờ, nhưng càng thích hưởng lạc và lười biếng. Ít sợ Tứ Sát tinh xâm phạm, ngược lại có thể tăng thêm ý chí chiến đấu (nếu Sát tinh nặng thì không tốt). Miếu vượng thì an nhàn, vui vẻ, không làm mà hưởng. Hãm địa thì bình thường và lao tâm khổ tứ. Hội Khoa Văn các sao thì dễ mê mẩn trong các hưởng thụ tinh thần như âm nhạc, ít có chí tiến thủ. Gặp Không Kiếp, cát ẩn hung, có tổn thất, "trước thành sau bại". Thêm Đào Hoa tinh, tinh thần trống rỗng và nhiều phiền muộn tình cảm.
Gặp Hóa Quyền, tăng cường ý chí, ý chí sáng tạo và khả năng hóa giải tai họa. Tình trạng phá bỏ sản nghiệp tổ tiên để tự lập vẫn khó tránh. Nhưng nếu gặp Sát Hình thì ngược lại chủ về ý chí bạc nhược, tăng khả năng theo đuổi hưởng thụ, nữ mệnh thì càng dễ sa ngã. Cũng có thể trở nên bám víu vào quyền thế. Chỉ khi có cả sao tốt và sao xấu thì mới có mục tiêu và siêng năng hơn. Miếu vượng thì vui vẻ, an nhàn, không làm mà hưởng, có thể giữ chức vụ quan trọng. Hãm địa thì bình thường.
Gặp Hóa Kỵ, không có phúc để hưởng thụ. Thích tiêu tiền để hưởng thụ. Đời sống tinh thần không như ý, nhiều phiền muộn tình cảm, cảm xúc không ổn định. Không tích cực làm việc, không giỏi nắm bắt cơ hội, nhưng vẫn mang tinh thần lạc quan. Thời thanh niên, trung niên đột nhiên xảy ra biến cố gia đình, phải tự lập nghiệp, chắc chắn phải trải qua một giai đoạn gian nan. Thêm một trong Lục Sát tinh, nhiều vất vả, tai ương, hình thương. Thích hợp với các ngành văn chương, phúc lợi xã hội. Hãm địa thì càng bất an, cảm xúc buồn bã, lý tưởng quá xa vời. Nếu tam phương hội đủ Khoa Quyền Lộc, ngược lại có thể kích thích ý chí chiến đấu và có thành tựu. Hóa Kỵ ở cung đối chiếu thì càng tốt và thành tựu càng lớn.
Nữ mệnh, đa số là người hiền lành, xinh đẹp, đầy đặn. Da trắng mịn, sau tuổi trung niên thì phát phì. Tính tình lương thiện, ôn hòa, đối xử với mọi người nhiệt tình, thân thiện và đúng mực. Thông minh lanh lợi. Tình cảm yếu đuối, tính khí trẻ con, hay làm nũng, một chút chuyện nhỏ cũng khóc không ngừng. Hơn nữa, cũng lười biếng, thích hưởng thụ, chú trọng ăn mặc và chất lượng cuộc sống. Tình cảm phong phú, bề ngoài lạc quan, nội tâm đa sầu đa cảm. Ý chí không kiên định, dễ mềm lòng, dễ bị người khác dụ dỗ, yêu nhầm người không nên yêu, ví dụ như người đã có gia đình. Nếu thêm Đào Hoa tinh hoặc sao Thủy thì nhu cầu tình dục cao, nhiều phiền muộn tình cảm. Thích hợp với các ngành văn hóa và giáo dục. Miếu vượng, thêm sao tốt, không gặp Sát Kỵ, chắc chắn là người giàu sang, quý phái. Vượng phu ích tử, thông minh, hiền thục. Người sinh năm Giáp, mệnh ở cung Dần, người sinh năm Tân, mệnh ở cung Mão, người sinh năm Đinh, mệnh ở cung Tý là cách thượng đẳng. Người sinh năm Bính, Mậu, mệnh ở cung Tỵ là hợp cách. Người sinh năm Đinh, mệnh ở cung Tuất là hợp cách. Người sinh năm Bính, Tân, mệnh ở cung Hợi là hợp cách. Người sinh năm Bính, mệnh ở cung Tuất là trung cát. Người sinh năm Quý, mệnh ở cung Sửu thì "trước nghèo sau giàu". Ở cung Tỵ, Hợi, tuy có giàu sang, nhưng không giữ trinh tiết, thậm chí còn lẳng lơ, dâm đãng. Ở cung Mão, Dậu, nếu gặp Đào Hoa tinh cũng dâm đãng, lẳng lơ, là mệnh tái giá hoặc làm vợ lẽ. Ở cung Sửu, Mùi thì nhiều hình khắc, hung bạo. Nếu cung Phu Thê có nhiều Đào Hoa tinh, dễ sa vào chốn phong trần. Hội Xương Khúc thì tình cảm không suôn sẻ, có nhiều mối quan hệ. Gặp Sát Kỵ phá hỏng, hôn nhân không thuận lợi, thậm chí hình phu khắc tử. Hội Lương Nguyệt thì được coi là làm vợ lẽ, thị thiếp.
Cung Tý miếu địa, cung Ngọ hãm địa. Người sinh năm Giáp, Đinh, Kỷ, Quý, thêm sao tốt là cách cục tài quan. Lấy tính tình của Thiên Đồng làm chủ. Khuôn mặt tròn pha vuông hoặc trái xoan, trắng xanh hoặc vàng trắng, môi đỏ răng trắng, thân hình trung bình hơi mập. Sự nghiệp thích hợp làm công chức, giáo viên, du lịch, giải trí, dịch vụ, nghệ thuật, ngũ thuật.
Đồng Âm Tý Ngọ, vì mây che mặt trăng, dễ mập lại dễ gầy, tính tình dễ thay đổi. Khi tích cực thì ý chí cao, tiến thủ. Khi tiêu cực thì chán nản, không phát triển. Cung Tý thuộc tính tiêu cực, cung Ngọ có tính tích cực. Gặp sao tốt thì chủ về tích cực, tiến thủ. Gặp Sát Kỵ thì chủ về tiêu cực.
Thiên Đồng hóa Lộc, cung Quan Lộc Thiên Cơ hóa Quyền. Nữ mệnh thì khá tốt, nam mệnh thì thích hưởng thụ và có nhiều duyên với người khác giới, ảnh hưởng đến sự nghiệp và hôn nhân. Nếu thêm Hóa Khoa hoặc một chút Sát tinh thì có thể có thành tựu. Thiên Đồng hóa Quyền, Thái Âm cũng hóa Lộc, và có Lộc Tồn hội chiếu. Cung Quan Lộc Thiên Cơ hóa Khoa, cung Tài Bạch Cự Môn hóa Kỵ, Tứ hóa đầy đủ, có tốt có xấu. Lợi cho sự nghiệp nhưng không lợi cho tài vận, lợi cho công chức, cũng lợi cho làm việc trong các doanh nghiệp của người nước ngoài, người ở xa. Hơn nữa, phải lao tâm khổ tứ, hao tổn ngầm, và nhiều phiền muộn tình cảm, thị phi. Thái Âm hóa Quyền, mượn hội Thái Dương hóa Khoa. Nhật Nguyệt Khoa Quyền chủ về sự nghiệp thuận lợi. Hội Thiên Cơ hóa Kỵ, chỉ chủ về nhiều biến động và không chuyên một nghề. Không có Lục Cát Tinh thì danh nhiều hơn lợi.
Đồng Âm ở cung Tý, cả đời an nhàn, vận may và chức vụ đều tốt, có thể trung thành với chức vụ. Tính cách ôn hòa, cởi mở, nói năng lưu loát. Thích giúp đỡ người khác, nhiệt tình, phóng khoáng. Lạc quan và thích hưởng thụ. Tình cảm phong phú, lòng tự trọng cao, nhạy cảm, nội tâm. Sợ nhất là bị tổn thương tình cảm, dễ có phiền muộn tình cảm. Nhưng những phiền muộn này thường ẩn sâu trong lòng, không bộc lộ ra ngoài. Nhã nhặn và thích sạch sẽ, có bệnh sạch sẽ. Vững vàng nhưng hay lo nghĩ. Khi tích cực thì rất có động lực, khi tiêu cực thì lười biếng đến cùng. Mối quan hệ tốt, duyên với người khác giới tốt, có sức quyến rũ mê hoặc đối với người khác giới. Được nhiều người khác giới giúp đỡ. Cả nam và nữ đều có năng khiếu nghệ thuật, chú trọng chất lượng cuộc sống, có năng khiếu nghệ thuật, thích âm nhạc, nghệ thuật, cũng thích cuộc sống tự do, không gò bó. Thông minh, thanh tú, là người tài giỏi, có khả năng phân tích, hoạch định tốt, nhưng khả năng thực hành kém. Có thể làm công chức, giữ chức vụ quan trọng. Có tài năng đặc biệt trong y học, đặc biệt là Đông y. Thêm sao tốt thì giàu sang, phú quý đầy đủ. Thêm Tả Phụ, Hữu Bật thì được giúp đỡ nhiều. Thêm Xương Khúc thì thông minh, trí tuệ, có thể làm trong ngành giáo dục. Thêm Lộc Tồn thì danh lợi song toàn. Người sinh ban ngày thêm Sát tinh thì dễ có phiền muộn tình cảm. Kình Dương đồng cung, cơ thể có tổn thương. Đà La đồng cung, mập mạp và mắt lác. Hỏa Tinh, Linh Tinh đồng cung hoặc hội chiếu, là điềm xấu. Người sinh năm Bính, Đinh, sinh ban đêm, cả đời giàu sang, quý phái, trung lương. Sự nghiệp thuận lợi, không làm mà hưởng, phúc phận tốt, an nhàn.
Nam mệnh ở cung Tý, phong lưu, lãng tử, là dạng thư sinh tuấn tú. Duyên với người khác giới tốt, phong lưu, phóng khoáng, nhờ phụ nữ mà thành công. Nhưng tình cảm dễ gặp trắc trở, không nên kết hôn sớm. Hội sao tốt là nhân tài kỹ thuật, lãnh đạo xuất sắc, có thể giàu có hoặc quý phái. Hội Sát Kỵ thì bình thường, nhiều phiền muộn tình cảm, và dễ có tai nạn, hình thương. Thêm Thiên Hình thì có thể tự kiềm chế và trở nên nghiêm túc.
Nữ mệnh ở cung Tý, đoan trang, xinh đẹp, là kiểu mỹ nữ cổ điển. Tính tình dịu dàng, cởi mở, là kiểu vợ hiền, mẹ đảm. Nhã nhặn và có bệnh sạch sẽ. Thích du lịch, chú trọng ăn mặc, hưởng thụ. Tình cảm phong phú, nhưng khá yếu đuối, tình cảm không ổn định. Người sinh ban ngày dễ có phiền muộn tình cảm, kết hôn muộn thì tốt hơn. Không có sao tốt, có Sát tinh thì xinh đẹp nhưng dục vọng mạnh, là mệnh làm vợ lẽ, hoặc làm vợ hai, hoặc lấy người đàn ông đã ly hôn.
◇ Cách cục “Nguyệt sinh thương hải”: Đồng Âm ở Tý tọa Mệnh, không có Sát tinh phá, còn gọi là cách cục “Thủy trừng quế ngọc”. Hai sao đều miếu vượng, là cách cục giàu sang, phú quý. Người sinh ban đêm giàu sang, quý phái. Người sinh ban ngày hư danh, hư lợi.
Đồng Âm ở cung Ngọ, hai sao đều hãm, là mệnh phải bôn ba, xa quê, đi xa. Tính cách cởi mở, ôn hòa, nhân từ. Tình cảm phong phú nhưng yếu đuối, hay mơ mộng. "ngoài cương trong nhu". Đối xử với mọi người khoan dung. Kết giao rộng rãi, bạn bè nhiều. Có ý chí tiến thủ hơn cung Tý, nhưng "trước siêng sau lười". Ở đất Hỏa Vượng, nhiều bôn ba, vất vả, nhiều thành bại. Tuổi trẻ xa quê, phát triển ở nơi đất khách, cả đời bôn ba, thường xuyên đi xa. Trong giới kinh doanh có thể nổi danh. Gặp sao tốt cũng có giàu sang, quý phái, có địa vị. Không có sao tốt mà thêm Lục Sát tinh thì thể chất kém, gầy yếu, có bệnh mãn tính, thậm chí tàn tật, cô độc. Bôn ba vất vả, sự nghiệp không thuận lợi, "thành cũng cuối cùng bại". (Đồng ở Dậu, Âm ở Mão, thêm Sát Kỵ cũng tương tự). Thêm Kình Dương, không có sao tốt hóa giải, bẩm sinh số bạc mệnh, tàn tật, hình thương. Hội Đà La chủ về hình thương, "người đi của cải tán", tai nạn đổ máu. Hội Hỏa Tinh, Linh Tinh thì âm hiểm, độc ác, giết người, cướp của. Trộn lẫn Sát tinh thì càng hung hiểm. Gặp Kiếp Không, Hóa Kỵ, Hỏa Tinh, Linh Tinh, cả đời nhiều bệnh tật. Thích hợp với nghề thủ công. Nam mệnh bất lợi cho vợ, con gái. Nữ mệnh tình cảm dễ gặp trắc trở, dâm đãng. Không có sao tốt thì là mệnh làm vợ lẽ. Hội Tứ Sát thì dâm tiện và hình khắc.
◇ Cách cục “Mã đầu đới tiễn”: Đồng Âm ở cung Ngọ thủ Mệnh, đồng cung với Kình Dương, không có các Sát tinh khác mà có sao tốt đồng cung, chính là cách này. (Có người nói Sát Phá Tham ở Ngọ đồng cung với Kình Dương cũng là cách này). Người sinh năm Bính, Mậu mới hợp cách, là mệnh tướng soái, uy trấn biên cương. Đường binh nghiệp thuận lợi, thường nhờ chiến công mà được thăng chức. Các ngành tư pháp, quân cảnh cũng tốt. Phải trải qua gian nan, phấn đấu rồi mới giàu sang, quý phái. Người này có tính cách hiền lành hơn so với cách "Tham Dương", nhưng cũng chủ về cô độc, hình khắc lục thân, xa quê hương. Sự nghiệp thăng trầm, nhưng không sợ khổ, có thể tích cực tiến thủ. Sau khi trải qua gian khổ, phấn đấu thì thành công. "khổ tận cam lai", cuối cùng cũng thăng tiến. Thời thơ ấu có nguy hiểm, cả đời chắc chắn có tai nạn, hình thương. Không có sao tốt giúp đỡ thì phúc cũng không bền, và chết không toàn thây. Thêm các Sát tinh khác thì cách cục bị phá vỡ, lao động mà không có thành quả, và nhiều tai ương, tù tội. Bị coi là "sâu mọt xã hội". Cơ hội xuất ngoại nhiều hơn. Vận hạn gặp cách này cũng chủ về xuất ngoại, hoặc đổi nghề, thay đổi công việc.
Cung Sửu, Mùi thất địa. Người sinh năm Ất, Nhâm, Giáp, Bính, Tân, Canh, là cách cục tài quan. Lấy tính tình của Thiên Đồng làm chủ. Khuôn mặt dài vuông, trắng vàng hoặc vàng trắng, miệng rộng, môi dày, thân hình trung bình thấp hoặc lùn, gầy. Thích hợp làm các ngành nghệ thuật, giáo dục, nghiên cứu, truyền thông, bán hàng, các ngành liên quan đến lời nói.
Đồng Cự ở Sửu Mùi tọa Mệnh, Thiên Đồng là mây, Cự Môn là ánh nắng mặt trời. Mây che mặt trời thì không có ánh nắng, vì vậy đây là cách cục hạ đẳng, đóng vai trò của kẻ tiểu nhân. Thiên Đồng là sao của cảm xúc, Cự Môn là sao của thị phi, trở thành mặt tối trong cảm xúc và tình cảm. Tinh thần phiền muộn rất lớn, nhiều chuyện ám muội, bệnh tật âm thầm, chuyện buồn. Bề ngoài bình tĩnh, bên trong đau khổ. Cuối đời chuyển biến tốt. Thích gặp Hóa Cát để giảm bớt sự u ám. Gặp Tứ Sát, Hình, Kỵ đều tăng thêm sự u ám, kỵ nhất là Kình Dương đồng cung, tam phương hội chiếu cũng bất lợi. Hung thì có ý nghĩa ly hôn, phân ly. Tính cách ôn hòa, thông minh, trí nhớ tốt. Có năng khiếu nghệ thuật, nhiệt tình, chính trực, thích giúp đỡ người khác, có khả năng xã giao mạnh mẽ. Giỏi hoạch định, tính toán chi li, khả năng quan sát mạnh. Có mưu lược, nhưng ít người biết đến, thường tài năng không được trọng dụng. Vì vậy, cả đời bôn ba, vất vả, "bận rộn mà tìm vui". Nói năng không hay, thiếu khả năng diễn đạt, thị phi nhiều. Dễ gặp tiểu nhân, không hòa thuận với người khác, nhiều trắc trở, lao tâm khổ tứ. Tuổi trẻ gian nan, sau tuổi trung niên dần tốt hơn. Tính cách cố chấp, ích kỷ, nói và làm không nhất quán, keo kiệt, đa nghi. Hay mơ mộng, nhiều phiền não. Cả đời không có sự phát triển lớn. Bất kể nam hay nữ, đều dịu dàng, đa tình, thích gần gũi người khác giới và do đó mà gặp phiền muộn, rắc rối. Nhược điểm lớn nhất là tin lời gièm pha, hành động theo cảm tính mà thất bại. Có Lộc thì mới có thể giàu sang, phú quý. Không có Lộc, gặp sao tốt thì chỉ có thể giảm bớt vất vả và thị phi hoặc có thành tựu nhỏ, khó có được giàu sang, phú quý. Đồng cung với Sát tinh, âm mưu, gian xảo, cả đời gian nan. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh thì có nốt ruồi lạ, vết nám trên mặt, vết sẹo, hoặc bệnh về mắt... Hạn vận hung thì chết ở nơi đất khách. Gặp Kình Dương, Đà La thì nam nữ dâm loạn, khắc vợ/chồng, hôn nhân không thuận lợi. Béo phì, mắt lác, thị lực kém, cơ thể bị tổn thương. Gặp Hóa Kỵ, nói năng không khéo léo, thường một câu nói vô tình cũng làm mất lòng người khác, thị phi do mình tự chuốc lấy. Gặp Thiên Đồng hóa Kỵ thì ý chí sa sút. Trộn lẫn Sát Hình Kỵ thì chết ở nơi đất khách. Thêm Linh Tinh và Hóa Kỵ, kiện tụng, quan tụng. Gặp Xương Khúc Đào Hoa tinh, thích hợp làm các ngành nghệ thuật, biểu diễn âm nhạc. Tam phương có nhiều Sát tinh, chắc chắn có hung họa, dễ có hỏa hoạn. Thiên Đồng hóa Quyền, Cự Môn chắc chắn hóa Kỵ. Hội Thiên Cơ hóa Khoa. Vừa tăng thêm tính chủ động, vừa tăng thêm phiền muộn. Rất phức tạp. Không có Sát tinh, có sao tốt thì tốt. Không có sao tốt, có Sát tinh thì hung. Nữ mệnh có năng khiếu nghệ thuật, thích vẽ tranh, cắm hoa. Hay mơ mộng, nhiều trắc trở tình cảm, có chuyện tình đau buồn. Dễ làm vợ lẽ. Người sinh năm Giáp, Canh, Mậu, nếu có Khôi Việt nhập Mệnh thì càng nghiêm trọng. Thêm sao tốt, "trước tiện sau giàu". Thêm Sát Kỵ và Đào Hoa tinh, dễ sa vào chốn phong trần.
Đồng Cự mang ý nghĩa đau đớn khó quên suốt đời. Chỉ cần thêm một chút Sát tinh là có tổn thương, đau khổ về tinh thần. Nhập cung Lục Thân cũng tương tự.
Đồng Cự ở Sửu, thị phi nhiều, phúc mỏng, vất vả. Dù có giàu sang, phú quý cũng không được thanh thản. Cuối đời khá hơn một chút. Hội Tứ Sát, lưu niên lại hội Bạch Hổ, chủ về có kiện tụng xảy ra. Chỉ gặp Hóa Kỵ mà không có Sát tinh, tuy có thị phi và trở ngại, nhưng có thể "biến hung thành cát".
Đồng Cự ở Mùi, kém hơn cung Sửu. Ôn hòa, nói năng không khéo léo, vất vả, nhiều thị phi. Tài năng không được trọng dụng. Luận giải còn lại giống cung Sửu.
Cung Dần lợi địa, cung Thân vượng địa. Người sinh năm Giáp, Đinh, Kỷ, phúc hậu. Cung Dần tốt hơn cung Thân một chút. Cung Dần, người sinh năm Kỷ, Đinh là cách thượng đẳng. Người sinh năm Nhâm chủ về giàu có. Cung Thân, người sinh năm Bính, Đinh, Kỷ là cát. Lấy tính tình của Thiên Đồng làm chủ. Khuôn mặt tròn vuông hơi dài, trắng vàng, trán cao, cằm hơi nhô, thân hình trung bình cao, hơi mập. Thích hợp làm công chức, kỹ thuật viên, bác sĩ, luật sư, giáo viên, truyền thông, giải trí, dịch vụ.
Đồng Lương ở Dần Thân thủ Mệnh, kết hợp xã giao và danh vọng. Hình dáng đầy đặn, thanh tú. Tính tình tốt, an phận thủ thường, biết cách chăm sóc sức khỏe, khỏe mạnh và có phúc thọ. Đối xử với mọi người nhiệt tình, vững vàng, thành thật. Ôn hòa, lương thiện và hơi hướng ngoại. Tư tưởng thanh cao nhưng đối xử với mọi người nhiệt tình. Dễ gần, không câu nệ tiểu tiết. Hào sảng và hài hước. Giữ chữ tín, hoạt bát, năng động. Giỏi đối nhân xử thế, quan hệ rộng. Kết bạn rất nhanh, đi đâu cũng được mọi người yêu mến, hợp duyên với người lớn tuổi. Chủ quan, cố chấp, nóng nảy. Có tính giả tạo, giỏi che giấu bề ngoài. Tự mãn với tài năng, thích làm thủ lĩnh. Thích tiêu tiền cho xã giao. Thị phi sinh ra từ xã giao, dễ có phiền muộn về hôn nhân và tình cảm. Nhưng có thể lấy chuyện tình buồn làm niềm an ủi tinh thần. Đa số có tài năng, kỹ thuật khá cao, làm nhiều nghề. Không thích khởi nghiệp lớn, gánh vác trọng trách và làm chính trị. Thích chăm sóc người khác, làm việc cẩn thận, thích hợp làm công chức hoặc các công việc dịch vụ. Không có sao tốt khó mà quý hiển, nhưng vẫn có ba phần phúc khí. Cả đời đi xa nhiều, thích các hoạt động ngoài trời, thường xuyên chuyển nhà. Có thể có mẹ nuôi, em gái nuôi. Hội sao tốt thì phúc thọ, giàu sang, quý phái, cuộc đời bình ổn, không có sóng gió lớn. Dễ có duyên với tôn giáo, ngũ thuật, thêm Không Kiếp Sát Kỵ thì càng đúng. Bản thân Đồng Lương đã thiếu tính tích cực, nếu thêm Thiên Mã thì càng bồng bềnh không có gốc rễ, xa quê hương, hoặc thường xuyên chuyển nhà. Mơ mộng nhiều, thiếu thực tế. Nhưng nếu hội Lộc Tồn, Hóa Lộc thì tuy xa quê nhưng có thể phát đạt. Có Sát tinh, không có sao tốt, nhiều bôn ba, sự nghiệp nhiều trắc trở, hư danh, hư lợi, gian xảo, giả dối. Đà La đồng cung, mập mạp, mắt lác, bệnh về mắt, tính tình cực đoan, làm những chuyện trái thuần phong mỹ tục. Cát hung lẫn lộn, "trước khó sau dễ", có thành có bại. Tuy giàu sang, phú quý nhưng nhiều tai họa, bệnh tật hoặc vất vả. Thiên Đồng hóa Lộc, chắc chắn hội Kình Đà. Cung Quan Lộc Thiên Cơ hóa Quyền. Thích gặp Kình Dương để được kích thích, có thể phát triển ổn định. Không thích Đà La, thích hưởng thụ mà không có ý chí tiến thủ. Cung Tài Bạch gặp Đà La thì kiếm tiền vất vả và tài nguyên ít. Gặp Hóa Khoa hội chiếu thì tốt hơn. Thiên Lương hóa Lộc, chắc chắn hội Kình Đà, ngược lại vì tiền mà thêm phiền muộn. Thiên Lương hóa Quyền, sự nghiệp Thiên Cơ hóa Lộc, cung Tài Bạch Thái Âm hóa Kỵ. Tam phương hội Sát tinh. Sự nghiệp tuy ổn định, nhưng cũng dễ vì tiền mà thêm phiền muộn. Thiên Đồng hóa Quyền, tam phương chắc chắn hội Khoa Lộc. Cách cục tốt, thiên về tăng cường tính chất của Thiên Lương, thích phục vụ mọi người. Nhưng cung Phu Thê Cự Môn hóa Kỵ, hôn nhân không thuận lợi.
Đồng Lương đều là sao phúc thọ, hai sao đồng cung thì càng kiên cường. Có phúc thọ, không sợ hung sát (chỉ là tương đối, ngược lại sẽ thường xuyên gặp chuyện hiểm nguy, nhưng kết quả đều có thể "biến nguy thành an". Sát tinh ít thì không sợ, khi hung sát tụ hội thì tai họa cũng không tránh khỏi). Nếu có Hóa Lộc, Lục Cát Tinh thì càng thích gặp chút Sát tinh để tăng ý chí chiến đấu, có thể đạt được giàu sang, phú quý. Có tác dụng "gặp nạn thành cát tường", "biến hung thành cát", cả đời có những phen giật mình nhưng không nguy hiểm. Không có sao tốt, có Sát Kỵ, cũng có thể sống một cách an lành, nhưng nhiều trắc trở, vất vả. Phúc khí trời cho, bản thân không giỏi khởi nghiệp, nhưng có thể được người lớn tuổi và mọi người giúp đỡ, chăm sóc, "ngồi hưởng thành quả".
Cách cục “Cơ Nguyệt Đồng Lương Dần Thân vị, nhất sinh lại nghiệp thả thông minh”: Tứ sao này giao hội tại Mệnh cung, là cách cục Cơ Nguyệt Đồng Lương. Không có Sát tinh, có sao tốt, là mệnh làm quan lại, hoặc nổi tiếng nhờ tài năng kỹ thuật. Làm nhiều nghề, cũng chủ về sống lâu, danh tiếng tốt. Phải có Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt hội chiếu mới được coi là vào cửa công (công chức) mà được quý hiển. Và phải lập Mệnh tại cung Dần, Thân. Chủ về công danh bút mực (tức là tài năng văn chương, kỹ thuật), danh lợi song toàn. Chỉ lợi cho kỹ thuật và công chức, không lợi cho khởi nghiệp kinh doanh. Không có sao tốt, có Sát tinh, nhiều bôn ba, không ổn định, hư danh, hư lợi, bề ngoài chính chắn nhưng bên trong gian xảo.
Đồng Lương có ý nghĩa ly biệt. Chỉ cần thêm một chút Sát tinh là có sự chia ly với người thân mà dẫn đến đau khổ tinh thần. Nhập cung Lục Thân cũng tương tự.
Đồng Lương tọa Mệnh, cung Phu Thê là Cự Môn, tình cảm vợ chồng không tốt, cãi vã nhiều. Cự Môn hóa Kỵ thì càng hung. Nữ mệnh gặp thì hôn nhân đa số không tốt. Cung Phúc Đức lại có Xương Khúc, Thiên Diêu thì càng đúng. Không có Sát tinh, thêm sao tốt, tướng mạo đoan trang, xinh đẹp. Cung Phúc Đức lại tốt thì chủ về cả đời an nhàn, vượng phu ích tử, thông minh, hiền thục. Thêm Sát tinh hoặc Đào Hoa tinh thì chủ về dâm dục hoặc làm vợ lẽ.
Đồng Lương và Đồng Âm đều thuộc loại ôn hòa. Đều phải "trước khổ sau ngọt", trải qua gian nan trong cuộc sống rồi cuối cùng mới thành công. Cách cục của Đồng Lương cao hơn, địa vị, danh tiếng lớn hơn Đồng Âm. Đồng Lương thích hợp với nam mệnh, chủ về chính trực, đoan trang. Đồng Âm thích hợp với nữ mệnh.
Cung Mão, Dậu bình hòa. Người sinh năm Ất, Bính, Tân, thêm sao tốt là cách cục tài quan. Cung Mão tốt hơn cung Dậu. Khuôn mặt trái xoan, vàng trắng, thân hình trung bình.
Thiên Đồng ở Mão Dậu, ổn định, vững vàng, làm việc vất vả mà không thấy khổ. Ôn hòa, từ tâm, thông minh, nhanh nhẹn, an phận thủ thường, đáng tin cậy. Nhưng khá lười biếng, nóng nảy, cuộc sống tản mạn, do dự, thiếu quyết đoán. Trọng tình cảm, ham công danh một cách nhanh chóng, phong lưu, lãng mạn. Tinh thần khá trống rỗng. Khi gặp trắc trở dễ chán nản, thất vọng. Nam nữ đều dễ vì vậy mà sa ngã hoặc mắc bệnh. Nếu cung Phúc Đức cũng không tốt, thì cả đời trắc trở và tinh thần trống rỗng. Chịu ảnh hưởng của Thái Âm ở cung đối chiếu, khá thích văn học, nghệ thuật. Hội sao tốt, có tài năng văn nghệ, có thể giảm bớt sự trắc trở và tinh thần trống rỗng, có phúc lộc thọ. Thêm Sát tinh, Sát nhẹ thì có thể tăng ý chí chiến đấu. Sát Kỵ nặng thì dễ bị người khác dụ dỗ và sai khiến. Cả đời trắc trở, nhiều tai họa, có thể chết bất đắc kỳ tử, ở cung Dậu thì càng hung. Kình Dương đồng cung, cơ thể bị tổn thương. Nếu thêm Hỏa Tinh, Linh Tinh, Không Kiếp thì càng hung, và cuộc sống rất gian nan, trống rỗng. Đà La đồng cung, mập mạp, mắt lác. Nữ mệnh, thích cuộc sống đầy đủ và hưởng thụ tinh thần. Mệnh cung hoặc Phúc Đức cung thêm Sát tinh và Đào Hoa tinh thì dâm đãng khó tránh. Dễ tư thông với người khác hoặc làm các ngành nghề liên quan đến sắc tình. Người sinh năm Bính, Đinh thì ngược lại nhiều dâm dục.
Gặp Hóa Lộc, cung Tài Bạch chắc chắn có Lộc Tồn. Cung Quan Lộc Thiên Cơ hóa Quyền. Sự nghiệp thuận lợi, tài vận cũng tốt. Gặp Hóa Quyền, Tứ hóa đầy đủ. Sự nghiệp ổn định. Làm các ngành liên quan đến lời nói hoặc bán lẻ thì có lợi hơn.
Thiên Đồng ở Mão, "ngoài mềm trong cứng", giữ vững nguyên tắc, bao dung, giàu sang và có đức hạnh. Cung đối chiếu Thái Âm hóa Kỵ thì không thích Lộc Tồn đồng cung, chủ về âm mưu, thủ đoạn. Nữ mệnh có nhiều đối tượng yêu đương, thêm sao tốt thì cả đời có hưởng thụ. Thêm Sát tinh, Đào Hoa thì dâm đãng khó tránh. Ở cung Dậu, thông minh, khiêm tốn, phong lưu, nhã nhặn. Đào hoa quá nặng. Người sinh năm Canh cả đời không thể phát đạt. Hội Sát Kỵ thì tàn tật, cô độc, là loại lưu manh. Nữ mệnh ở cung Dậu, hôn nhân không thuận lợi, tái giá hoặc làm vợ lẽ. Thêm sao tốt thì khá hơn, thêm Sát tinh thì càng hung, thêm Đào Hoa tinh thì dâm đãng khó tránh.
Người tọa Mệnh ở cung Dậu, gặp người sinh năm Canh, Canh Tý, Canh Ngọ là hung nhất, cả đời phá bại. Chắc chắn chết dữ, chết yểu hoặc tàn tật.
Cung Thìn, Tuất bình hòa. Người sinh năm Bính, Đinh thì thông đạt. Người sinh năm Canh, Quý thì phúc không bền. Khuôn mặt tròn vuông, trắng vàng, thân hình trung bình, hơi mập. Thích hợp làm công chức, giáo viên, báo chí, tư pháp, các ngành liên quan đến lời nói.
Thiên Đồng ở Thìn Tuất, chịu ảnh hưởng của Cự Môn ở cung đối chiếu, thị phi nhiều. Hiền lành, trung hậu, nhiệt tình, hiếu khách, hòa đồng với mọi người. Quan hệ rộng, có mưu sâu, nghĩ xa. Ăn nói giỏi, thích tranh luận, nói chuyện cao siêu. Coi trọng hưởng thụ tinh thần, yêu tự do, tản mạn, nóng nảy. Làm việc theo khuôn mẫu. Thích học nghệ thuật, nhưng "học nhiều biết ít", không tinh thông. Thích hợp làm các nghề kiếm sống bằng lời nói và phục vụ người khác, không nên làm chủ. Thêm sao tốt thì thuận lợi hơn. Hóa Lộc và thấy Xương Khúc, phóng khoáng, kiên cường, quý hiển. Thấy Sát tinh, phải trải qua gian khổ phấn đấu mới có thành tựu. Kình Dương đồng cung, có chí khí và phấn đấu, nhưng cơ thể dễ bị tổn thương, tình yêu không chung thủy. Đà La đồng cung thì ý chí sa sút. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh chắc chắn sinh nốt ruồi lạ. Hóa Kỵ và hội Tứ Sát, ý chí sa sút và tiêu cực. Phá bại nhiều. Hội Triệt Lộ Không Vong, Không Kiếp, cả đời nhiều thăng trầm. Vì khá chủ quan, không nên hợp tác với người khác.
Gặp Hóa Lộc, cung Quan Lộc Thiên Cơ hóa Quyền. Hội Kình Dương thì có lợi hơn, hội Đà La thì bất lợi. Người sinh năm Đinh, Thiên Đồng hóa Quyền. Cung Ngọ có Lộc Tồn, Thiên Lương hóa Lộc. Cung Dần Thiên Cơ hóa Khoa. Cách cục Tam kỳ Khoa Quyền Lộc tốt. Gặp Cự Môn hóa Kỵ ở cung đối chiếu xung chiếu, ngược lại trở thành sức mạnh kích thích Thiên Đồng. Cách cục tốt, chủ về giàu sang, quý phái. Nhưng khá vất vả, tự lập nghiệp. Tuổi trẻ gian nan, cuối đời có thành tựu. Nữ mệnh hiền thục. Cung Tuất tốt, cung Thìn kém hơn.
Ở cung Thìn, "cương nhu tương tế", thị phi ít hơn cung Tuất. Gặp Tả Hữu Xương Khúc, có thể có danh tiếng và phát quý. Kình Dương đồng cung, cơ thể bị tổn thương. Đà La đồng cung, mập mạp, mắt lác. Gặp Hỏa Tinh, Linh Tinh thì có nốt ruồi lạ.
Thiên Đồng ở cung Tuất là "phản bối", Thủy bị cung Thổ khắc. Cô hàn, nghèo hèn. Cha mẹ có thể mất sớm. Bị cái nghèo bức bách, buộc phải siêng năng hơn một chút, vì vậy vất vả, bôn ba nhiều hơn. Thêm sao tốt cũng có thể giàu sang, quý phái, và giàu mà không kiêu, lấy đức phục người. Phúc đến từ sự cần cù. Thêm Sát tinh là cách hạ đẳng. Hạn vận gặp cung này thường có những chuyến đi xa, hoặc đổi việc, chuyển đến nơi khác làm việc. Nữ mệnh chủ về vất vả, bôn ba và bình thường. Người sinh năm Đinh, cung Dần có Thái Âm hóa Lộc, Thiên Cơ hóa Khoa. Mệnh cung Thiên Đồng hóa Quyền. Cung Thìn có Cự Môn hóa Kỵ xung chiếu. Ngược lại là cách cục đại quý. Nữ mệnh là hiền thục. Người sinh năm Tân cũng chủ về "trước khổ sau ngọt".
Cung Tỵ, Hợi miếu địa. Người sinh năm Nhâm, Bính, Mậu, thêm sao tốt là cách cục tài quan. Người sinh năm Canh bất lợi. Thích hợp làm công chức, giải trí, luật sư.
Thiên Đồng ở Tỵ Hợi, tính cách ôn hòa, nhiều thư nhàn và niềm vui. Giỏi xã giao, ăn nói hay. Thông minh, nhanh nhẹn, quan hệ rộng. Coi trọng hưởng thụ và chất lượng cuộc sống. An nhàn, có phúc. Thích tửu sắc, ít chính kiến, không có ý chí sáng tạo. Làm việc không tích cực, sống qua ngày. Lười biếng, trì trệ. Thêm sao tốt, sự nghiệp có thành tựu, có thể hưởng thụ. Gặp Tả Hữu Xương Khúc có thể quý hiển. Ở cung Tỵ cũng hay nịnh nọt người khác. Chịu ảnh hưởng của sao Thiên Lương thất hãm ở cung đối chiếu. Hội Tứ Sát, cả đời vất vả, bôn ba, trắc trở và tiêu cực. Dễ có tai nạn đổ máu, cô độc, tàn tật. Chắc chắn vì những chuyện hung hiểm mà để lại sẹo, hoặc phá tài. Thêm Đà La, thị lực kém. Thêm Hỏa Tinh, Linh Tinh, sinh nốt ruồi lạ. Con người khá tà, dễ vào giới xã hội đen. Thêm Thiên Mã thì lãng đãng. Nam nữ đều chủ về tình cảm phức tạp. Nam thì khá lãng đãng, thích hợp làm nghệ sĩ. Nữ thì xinh đẹp nhưng dâm đãng, dễ gần, được mọi người yêu mến, dễ bị dụ dỗ, lừa gạt. Tình cảm nhiều trắc trở, thích hợp làm diễn viên. Thêm sao tốt thì giàu sang, quý phái, nhưng dâm đãng khó tránh. Thêm Sát tinh hoặc Đào Hoa tinh thì càng dâm đãng, hình phu khắc tử, tư thông với người khác hoặc làm gái phong trần.
Gặp Hóa Lộc, hội Lộc Tồn thành "Trùng Lộc" hoặc "Hiệp Lộc", có thể được thừa hưởng sản nghiệp tổ tiên, có sự nghiệp sẵn có. Hội Đào Hoa tinh thì ý chí sa sút. Gặp Hóa Quyền, cũng hội đủ Tứ hóa, nhưng hội Sát tinh và Hóa Kỵ ở cung Phu Thê, tính chất hoàn toàn khác. Sự nghiệp vẫn có thể, nhưng bất lợi nhất cho hôn nhân.
Sự nghiệp của Thiên Đồng, thích các công việc ít áp lực. Có thể làm công chức, giáo viên, bán hàng, các quán ăn nhỏ, cửa hàng tạp hóa, hoặc mẫu giáo, nghệ thuật, Đông y, kế toán, thương mại, xã giao, du lịch, giải trí, dịch vụ, hoặc các ngành liên quan đến nước và văn chương.
Thiên Đồng trong con người: nghệ sĩ, giáo viên, học giả, phúc lợi, thương mại, ngoại giao, nhân viên ngành ăn uống, dịch vụ. Trong cơ thể: tai, thận, bàng quang, da, thịt. Trong sự việc: các việc liên quan đến ăn uống, giải trí, xã giao, đồng tình, sống chung, an phận thủ thường, ít sáng tạo. Trong đồ vật: đồ ăn vặt, thực phẩm chức năng, đồ cứu trợ, vật tư y tế, đồ chơi, nước, đồ trang trí, đồ thưởng thức, đồ giải trí, thủy sản. Trong địa lý: phía Tây, cung Dậu. Mương nước, suối, giếng, vùng đất trũng, bãi cát, bãi hồ, bến cảng, chung cư, công ty thương mại, khu vui chơi, quán ăn vặt, vườn hoa. Thời tiết: trời âm u, ít mây, không có mặt trời. Trong số học: số sáu.
Thiên Đồng nhập nam mệnh, quyết đoán cát hung: Thiên Đồng miếu vượng phúc thọ dài lâu. Gặp sao tốt thì thông minh, danh tiếng vang xa. Thất hãm mà hội Sát tinh thì nhiều tai ương. Cơ Nguyệt Đồng Lương hội tụ thì nên quy y cửa Phật.
Thiên Đồng nhập nữ mệnh, quyết đoán cát hung: Phụ nữ Thiên Đồng lanh lợi. Xương Khúc hội chiếu thì phúc thật. Đồng Âm gặp nhau thì dâm đãng, xảo quyệt. Cơm áo tuy đầy đủ nhưng cuối cùng không tốt đẹp.
Nguồn: Blog 360Doc
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)