By Tử Vi Chân Cơ|
07:38 13/11/2025|
Bài Viết Sưu Tầm
Sao Thiên Khốc - Thiên Hư
Thiên Khốc thuộc Dương Hỏa, Thiên Hư thuộc Âm Hỏa, là trung thiên hung tinh. Thiên Khốc chủ hình khắc, ưu thương; Thiên Hư chủ trống rỗng, hao bại.
Hai sao này ở các cung Sửu, Mão, Thân là miếu địa, các cung khác là thất địa.
Nếu hai sao Khốc, Hư ở miếu địa thủ Mệnh, thêm sao cát vẫn có phúc; nếu hội với Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, danh tiếng hiển hách, cơm áo no đủ. Ở hãm địa, thì chủ có chuyện đau buồn, lận đận, nhiều hình khắc, phá bại, bất lợi cho lục thân, cô độc, nghèo khó, lại mang thương tật, mưu cầu khó thành, ngày ngày sống trong phiền muộn, làm việc gì cũng không xong. Nếu đồng cung với Cự Môn, hung tính càng tăng, ắt có thị phi, hình khắc, hao phá, thậm chí có chuyện tang thương; vận hạn gặp thì càng ứng nghiệm. Nếu hội Sát tinh, sớm phải xa quê lập nghiệp.
Nữ mệnh gặp hai sao này, nếu vào đất Bệnh, Tử, Tuyệt, Mộc Dục, thì đa phần chủ cô khắc, hình thương, sống trong phiền muộn. Nếu miếu vượng mà không có Sát tinh thì tai họa nhẹ hơn, cũng chủ cơm áo không thiếu. Hãm địa thì càng xấu hơn.
Hai sao Khốc, Hư không thích đồng cung, dù có đồng cung với Lục Cát tinh và các Chính tinh mạnh mẽ, chúng vẫn sẽ thể hiện sức mạnh của mình khi đến lưu niên. Khốc, Hư giáp hạn, hoặc Đại Tiểu hạn mỗi hạn được một sao, thì có lo âu về phá bại, tang phục; nếu giáp Cự Môn Hóa Kỵ thì càng ứng nghiệm; nếu Chính tinh miếu vượng, hoặc có Lộc Mã đồng độ thì có thể hóa giải.
Tính hung của Khốc, Hư trong mệnh cục không quá rõ ràng, nhưng khi vận hạn gặp thì hung, làm việc gì cũng khó thành, nhưng phá hoại thì thừa. Tam phương thấy Tang, Điếu, Bạch Hổ thì bản thân hoặc lục thân ắt có tai họa, dễ có chuyện tang phục. Trong đó Thiên Khốc chủ hình khắc lục thân, tang phục; Thiên Hư chủ hư hao, ốm đau.
☆ Sao Thiên Khốc:
Thuộc Bính Hỏa, là sao ưu thương, còn là sao hình khắc, sao khóc than, chủ tang vong, tang phục; trợ thêm cái ác của Cự Môn. Nếu Chính tinh cát thì nó đóng vai trò cổ vũ, dễ nổi danh. Nếu Chính tinh hung, đặc biệt khi gặp Cự Môn, thì nó đóng vai trò đội kèn trống đám ma.
Thiên Khốc là sao mang tính chất tình cảm, đa sầu đa cảm, bi oán buồn khổ, u sầu bao trùm, chủ thị phi, ưu sầu, bi thương, phiền não, đau khổ nội tâm, khóc than, v.v.
Khi vào Mệnh, tính cách cô độc, bôn ba vất vả, suốt đời mang tướng buồn khổ, cả ngày ủ rũ, hỉ nộ vô thường, không hòa đồng, duyên phận lục thân bạc bẽo, tình cảm dễ xúc động, ngầm rơi lệ, khi nhỏ hay khóc, thích lo âu bi thương, mặt sầu khổ, tư tưởng bi quan tiêu cực, hay cằn nhằn, thường đi kèm với những chuyện bi ai, chuyện khóc than đặc biệt nhiều, hay khóc và bất lợi cho lục thân, sự nghiệp cả đời vất vả khó thành, sống trong phiền muộn, thường xuyên bị đả kích, thị phi liên miên, sau khi bị đả kích thường trở nên bi quan oán đời. (Tính hung này chỉ lộ ra khi hội với hung tinh; nếu không có hung tinh thì không lộ, chỉ chủ ít tươi cười mà thôi; có cát tinh thì ảnh hưởng càng ít).
Nữ mệnh nhiều mơ mộng, tình cảm đặc biệt xúc động, tính cách mềm yếu, động một chút là khóc lóc, trẻ con thì càng ứng nghiệm.
Thiên Khốc hội với Thiên Hư, Kiếp Sát, Không Kiếp, Âm Sát, Tang Môn, Bạch Hổ, nếu vận hạn gặp, không có cát tinh thì chủ phá bại, thất bại, hoặc trong nhà hoặc trên đường dễ có chuyện chết chóc, bị thương, hao tốn. Thiên Khốc hội Thiên Diêu, chủ phá tài.
Đồng cung với Cự Môn thủ Mệnh, hung tính tăng thêm, nhiều thất bại, dễ có tang phục, lưu niên gặp cũng vậy, nếu lại hội thêm sao Tang Môn thì trong nhà ắt có chuyện khóc than.
Ở cung Mão Dậu gặp Liêm Tướng Địa Kiếp, khi tình cảm không thuận lợi sẽ có ý nghĩ tự sát. Ở cung Thân, Sửu, Mão là miếu địa hội Cát tinh, Tài tinh, chủ cơm áo no đủ, danh tiếng vang xa (ý nói sau khi có tiền thì người ngoài ắt biết, chứ không phải chủ về danh dự), thêm Lộc Tồn Hóa Lộc thì càng cát. Ở các cung khác, nếu Thiên Khốc không có cát tinh thì đều chủ phá bại, thất bại, đặc biệt khi hội với ám tinh Cự Môn thì càng hung.
Khi vào Thân, thân ở trong sự bi oán, làm việc có trở ngại, tiền đồ ít tươi sáng, thường có bóng đen đi kèm.
☆ Sao Thiên Hư:
Thuộc Đinh Hỏa, là sao chủ hao bại và trống rỗng, trợ thêm cái ác của Phá Quân. Nhấn mạnh chữ “Hư”, chứ không phải “Không”. Đại diện cho tật xấu, sai lầm, yếu kém. Chủ trống rỗng lo âu, dối trá không thật, tổn hao thất thoát, sự nghiệp khó thành, là cái trống rỗng mang tính giai đoạn. Mọi thứ đều không thực tế, không chân thật, đặc biệt khi Chính tinh gặp Sát Kỵ.
Khi vào Mệnh, con người phù phiếm không thực tế, hiếu danh hão, không có chủ kiến, thích khoe khoang, gian xảo lừa dối, bằng mặt không bằng lòng, cả đời thường đi kèm với những chuyện giả dối, lý tưởng cao vời, không thực tế, suốt đời phiêu bạt, cô độc, nghèo hèn, lục thân không nơi nương tựa, tình cảm mong manh, nội tâm cô độc, dễ bị ảnh hưởng bởi bên ngoài; bẩm sinh thân thể yếu ớt, thể lực không đủ, nhiều bệnh tật hoặc dễ bị thương tổn (đồng cung với Thái Âm thì càng rõ rệt). Vận mệnh gặp, nhiều thành bại, hư danh hư lợi, chỉ thích hợp với nhà sư, đạo sĩ, hoặc giới cửu lưu. Hội Đà, Dương thì có hình thương; thêm Tả Hữu, Khôi Việt, giảm bớt vất vả. Thêm Lộc, Tả Hữu, Khôi Việt, v.v., nếu nhiều cát tinh thì vẫn có phú quý và danh tiếng. Gặp Văn Xương thì thích lễ nhạc. Thêm Lục Sát thì hư danh hư lợi, giả dối, nhiều bệnh tật. Đồng cung với Phá Quân, Cự Môn, thì có tác dụng tăng thêm hung tính, làm gì cũng bất lợi, nữ mệnh thì càng xấu hơn.
Khi vào Thân, ý chí không mạnh mẽ, tính tình tương đối phóng đãng, mong manh, thường lực bất tòng tâm. Thêm Thiên Hình, Kình Dương, thì có hình thương, bất lợi.
Vị trí của Thiên Hư, trăm sự đều là hư duyên, không thực tế, thật thành giả, giả thành thật, khi đáng vui thì không vui, khi đáng lo thì không lo, gặp cát không cát, gặp hung không hung; duy chỉ khi phạm pháp luật thì tạm thời có thể miễn truy cứu; thích hợp để thủ chứ không nên công; thích hợp với người làm y tế, vệ sinh và người kinh doanh mua bán không có vốn.
Nguồn: Blog 360Doc
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)