Tử Vi + Thiên Phủ: Tổ hợp quá vượng, mệnh cách cao, nhưng thành tựu chưa chắc đã cao. Có Tả Phù, Hữu Bật tam phương hội kiến, sau 40 tuổi gặp đại vận tốt mới bắt đầu thể hiện thành tựu.
Mệnh Cung: Tự cao tự đại, tầm nhìn rộng, hay lải nhải tạp niệm, tính nóng như gió, chết vì sĩ diện mà chịu khổ, không hạ mình được, tham vọng lớn, không cầu người, thích nghệ thuật, âm nhạc, đồ cổ. Thích nắm quyền, không chịu khuất phục dưới người khác, khó tránh khỏi cô độc, tính tình lập dị nhưng dễ bị thuyết phục, tư tâm nặng, vòng giao tiếp không rộng.
Huynh Đệ Cung: Anh em đông nhưng giúp ích cho mình không nhiều, bình thường chỉ biết nghe lời.
Phu Thê Cung: Phụ nữ lấy chồng xuất sắc, đàn ông được vợ trợ giúp, nhưng vì quá vượng nên tranh cãi không ngừng, có dấu hiệu cô độc.
Tử Tức Cung: Bạn là người cha/mẹ thứ 25 hiếu thảo, Tử Tức Cung quá vượng, chỉ có 1 con, do đó chủ về cô độc.
Tài Bạch Cung: Rất giỏi kiếm tiền, khả năng quản lý tài chính tốt, thích hưởng thụ, gu thẩm mỹ cao, theo chủ nghĩa hàng hiệu.
Tật Ách Cung: Bệnh mãn tính cao, dạ dày, lá lách không tốt, đại tràng nhu động kém, ợ hơi, liên quan đến tiêu hóa.
Thiên Di Cung: Nên xa quê hương để phát triển, quan hệ rộng, nhiều quý nhân, cả đời có nhiều cơ hội đi xa.
Nô Bộc Cung: Bạn bè có tầng lớp cao.
Quan Lộc Cung: Phần lớn làm trong giới thương mại hoặc ngành liên quan đến tài chính.
Điền Trạch Cung: Thích nhà tầng cao hoặc diện tích lớn, cũng có thể gần đó chỉ có nhà bạn.
Phúc Đức Cung: Càng già càng cô độc, lải nhải, chết vẫn không chịu buông quyền.
Phụ Mẫu Cung: Duyên mỏng với cha mẹ, cha mẹ hay tranh cãi.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột” (sát tinh), sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Tử Vi + Thiên Tướng đồng cung: Thành tựu chưa chắc thuận lợi. Nếu có Tả Phù, Hữu Bật tam phương hội kiến, sau 40 tuổi gặp đại vận tốt mới bắt đầu thể hiện thành tựu.
Mệnh Cung: Dù nam hay nữ, vừa đẹp trai vừa xinh gái, khí chất nổi bật, phong độ như ngọc thụ lâm phong, là cao thủ phối đồ. Chú trọng hình ảnh, sĩ diện, nhiệt tình với công ích, lăng xăng nhưng dễ mềm lòng. Kén ăn, kén mặc, phù phiếm quá mức. Mệnh cách này, đàn ông phần lớn không toại chí, phụ nữ dễ vì xa hoa mà sa vào phong trần.
Huynh Đệ Cung: Tình cảm anh em dù tốt nhưng không giúp ích nhiều cho mình.
Phu Thê Cung: Hôn nhân sớm khó bền, muộn hôn mới viên mãn.
Tử Tức Cung: Con cái không vượng, nhưng có chút tài năng.
Tài Bạch Cung: Không giỏi quản lý tài chính, tiền đến nhanh đi cũng nhanh.
Tật Ách Cung: Sỏi thận, axit dạ dày.
Thiên Di Cung: Gặp quý nhân ở tha hương.
Nô Bộc Cung: Bạn bè nhiều, tầng lớp cao, được bạn bè trợ giúp.
Quan Lộc Cung: Thích hợp ngành ăn uống, thời trang, hàng hiệu, trang sức, tài chính.
Điền Trạch Cung: Nhà ở cao, u tĩnh, gần có kênh nước.
Phúc Đức Cung: Chú trọng ngoại hình, càng già càng lải nhải, tinh thần trống rỗng.
Phụ Mẫu Cung: Duyên mỏng với cha mẹ, nhỏ hay bị đánh, cha mẹ có vấn đề tình cảm.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Tử Vi + Phá Quân:
Mệnh cách này, dù nam hay nữ, nếu không có cát tinh tương trợ, tính cách bốc đồng, bá đạo, nhưng dễ bị thuyết phục, trở mặt nhanh, là cách “làm vua bất nghĩa, làm tôi bất trung, làm con bất hiếu” (tiểu trạm quân chú: vẫn cần xem toàn cục, nhưng Tử Phá không thích đi theo con đường gia đình định sẵn là thật). Cả đời tình cảm không để trống, dễ phóng túng dục vọng.
Mệnh Cung: Đây là cách đào hoa. Mức độ nặng nhẹ tùy thuộc vào việc có hội Tả Phù, Hữu Bật hay không. Nam giới: không cao, thích phô trương, lăng xăng, hay dùng lỗ mũi lườm người, cực kỳ hứng thú với chuyện phong hoa tuyết nguyệt, rượu sắc tài khí đều thông. Nữ giới: thích mơ mộng, bề ngoài tĩnh lặng u sầu, nũng nịu hạng nhất, tình cảm không ổn định.
Huynh Đệ Cung: Duyên anh em mỏng, mỗi người tự lo.
Phu Thê Cung: Không nên kết hôn sớm, tình cảm nhiều trắc trở, dễ ngoại tình, tranh cãi nhiều.
Tử Tức Cung: Là cha mẹ thứ 25 hiếu thảo, con cái không nhiều, khó dạy, con cái phản nghịch.
Tài Bạch Cung: Nữ thích mua sắm, ham vật chất, tiền đến tiền đi, tài vận lên xuống lớn.
Tật Ách Cung: Dạ dày không tốt, kinh nguyệt không đều, nam xuất tinh sớm, tay đứt, thuận tay trái.
Thiên Di Cung: Cả đời bôn ba, vận quý nhân mạnh, biết tự tiến cử, nên xa quê hương.
Nô Bộc Cung: Dễ kết bạn xấu, bị liên lụy.
Quan Lộc Cung: Công việc, sự nghiệp lên xuống lớn, không nên làm chủ, càng không nên làm sản xuất.
Điền Trạch Cung: Dễ ở nhà dột, nên sớm mua bất động sản, người phá khố cần bổ khố.
Phúc Đức Cung: Mệnh lộc già, không ngồi yên, càng già càng khó chiều.
Phụ Mẫu Cung: Người lớn tuổi từng phong lưu, hay tranh cãi, bản thân có thể có cha mẹ nghĩa.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Tử Vi + Thất Sát:
Mệnh cách này có tổ hợp Sát, Phá, Lang, dù nam hay nữ, nếu không có cát tinh tương trợ, cả đời như ngồi tàu lượn siêu tốc, nhưng ác nhân không có gan. Tử Sát bên ngoài bá khí, thực tế chỉ là hổ giấy. Nữ mệnh hướng ngoại, năng động, tính toán chi li, giúp chồng, nhưng hơi ích kỷ. Tổ hợp này nếu gặp Không, người đó ngược lại là “chó sủa rèm, chỉ dựa vào miệng”. Lười biếng, bị động, thiếu hành động. Sát tinh càng nhiều, càng bất lợi cho lục thân.
Mệnh Cung: Là đại nam nhân hoặc đại nữ nhân, cá tính mạnh, sùng bái tự do, không chịu ràng buộc thế tục, tự phụ, chủ quan nặng. Dễ độc đoán, thích thể hiện, ham kiểm soát, thích hưởng thụ, yêu du lịch, quan niệm gia đình nhạt, nghiêng về không kết hôn, rất hay cãi ngược.
Huynh Đệ Cung: Duyên anh em mỏng, không đông, mỗi người tự lo.
Phu Thê Cung: Người kia lải nhải, hôn nhân muộn hoặc không cưới, tình cảm nhiều trắc trở, dễ ngoại tình, tranh cãi nhiều.
Tử Tức Cung: Tử Tức Cung quá vượng, con cái khó dạy, phản nghịch, dù thành tài nhưng khó hiếu thảo.
Tài Bạch Cung: Tiền tài nắm chặt, không thích người khác xen vào, ham vật chất, tiền đến tiền đi, tài vận yếu.
Tật Ách Cung: Dạ dày không tốt, sa dạ dày, xuất huyết dạ dày, bệnh đại tràng.
Thiên Di Cung: Thích du lịch, hay lập nhóm nhỏ, nên xa quê hương.
Nô Bộc Cung: Bạn bè nhiều, tạp nham, dễ kết bạn xấu, bản thân cũng không giỏi chọn bạn.
Quan Lộc Cung: Là cách làm quản lý, thích hợp ngành chuyên môn, nơi làm việc không ổn định.
Điền Trạch Cung: Sớm khổ, sau 40 tuổi khố mới ổn định.
Phúc Đức Cung: Nhát gan, lao tâm, do do dự mà lỡ cơ hội, không ngồi yên, già muốn làm công ích.
Phụ Mẫu Cung: Có khoảng cách thế hệ, cha mẹ bất hòa, nhưng cần kiệm, gia giáo nghiêm.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Tử Vi + Tham Lang:
Cách cục này là cách đào hoa sâu sắc nhất trong Đẩu Số, có cách cục này, dĩ nhiên điều kiện bản thân cũng phải phù hợp, ngoại hình, trang phục, gu thẩm mỹ, chuyện phong hoa tuyết nguyệt, không thông sao được? Cử chỉ, ánh mắt, sao không toát lên phong tình vạn chủng?
Mệnh Cung: Nữ giỏi quan sát, xinh đẹp quyến rũ, rất phong tình, biết nắm lòng đàn ông, biết dùng nước mắt tấn công, thích mơ mộng, giỏi nịnh, miệng ngọt lừa người không đền mạng. Nam mắt cao hơn đầu, việc gì cũng nhìn lớn không nhìn nhỏ, tính nóng nảy, cố chấp, chủ quan, không nguyên tắc, chỗ nào có lợi thì chen vào, thích liếc mắt câu người, ham ăn ham chơi ham rượu, dáng không cao, đầu hói thêm bụng bia. Tổ hợp này muốn kiềm chế đào hoa, phải: 1. Gặp Không, 2. Lộc Tồn, 3. Có Tả Phù, Hữu Bật, hành vi sẽ thu liễm hơn. Tử Tham gặp Kỵ thì tai tiếng đầy trời.
Huynh Đệ Cung: Anh em không nên ở chung nhà, duyên mỏng, dễ bất hòa.
Phu Thê Cung: Tình cảm lên xuống lớn, phức tạp, dễ ngoại tình, nữ nên muộn hôn, nam sợ vợ.
Tử Tức Cung: Con cái vượng, đông (nếu không tiết chế), biết báo đáp, nhưng già không ở bên.
Tài Bạch Cung: Tiền tài nắm chặt, người khác ít xen vào, đối với tiền càng nhiều càng tốt.
Tật Ách Cung: Tim không tốt, dạ dày lá lách kém, dễ tiêu chảy.
Thiên Di Cung: Thích đi khắp nơi, ra ngoài như rồng, thích mới mẻ, náo nhiệt, kích thích, không chịu nổi cám dỗ.
Nô Bộc Cung: Không giỏi chọn bạn, bạn càng nhiều rắc rối càng lắm.
Quan Lộc Cung: Tự lập, phát triển trong thương giới, làm thương mại quốc tế, làm việc ở tổ chức lớn, cũng là cách quản lý.
Điền Trạch Cung: Khố tài vượng, khu vực nhà ở khá tốt, có công viên, cảnh sát, đền chùa.
Phúc Đức Cung: Phòng vệ mạnh, chủ quan nặng, thực tế, có khẩu phúc, tham lợi nhỏ.
Phụ Mẫu Cung: Cha mẹ sớm có tình cảm sôi nổi, nếu không tái hôn thì có xu hướng cha con nghĩa.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Thiên Cơ + Thái Âm:
Cách cục này nếu có Xương, Khúc tinh giao hội, lại không có sát tinh xung phá, trong xã hội phong kiến là cách Thám Hoa. Theo nghề nghiệp hiện đại, là công chức qua kỳ thi đặc biệt của quốc gia, giữ chức quản lý cao, trung niên đắc ý.
Mệnh Cung: Thông minh khéo léo, trí tuệ cao, giỏi ăn nói, tư duy nhạy bén, khả năng phân tích, quan sát tốt, có chút tài năng, trực giác mạnh, nhưng do dự, nội tâm không đủ ổn định, rất cảm xúc, hay thay đổi, đôi lúc rất lề mề, thích mơ mộng, thường tự thưởng thức, lòng dạ sâu, dễ tự tư tự lợi, hay so đo.
Nam thông minh hài hước, phản ứng nhanh, miệng không chịu thua, trông rất nắng, đào hoa nở rộ, giỏi quan hệ công chúng, biết tạo quan hệ.
Nữ chu đáo, lo gia đình, thường buồn không lý do, tư duy tinh tế nhưng thần kinh, bề ngoài dịu dàng thấu hiểu, nhưng quấn người hạng nhất, siêu lải nhải, hay chấp nhặt, tinh minh năng động, nhưng thường vì nhỏ mất lớn.
Huynh Đệ Cung: Anh em không quá ba, nếu có cát tinh giao hội, tình cảm anh em khá tốt, có người nhận cha mẹ nghĩa.
Phu Thê Cung: Hôn nhân nhiều sóng gió, đặc biệt bất lợi cho nữ.
Tử Tức Cung: Con cái thông minh hiếu động, thấu hiểu, chu đáo với gia đình.
Tài Bạch Cung: Thu nhập cố định của người làm công, tiền khó giữ, không nên đầu cơ, mê cờ bạc, nếu không tiền đến tiền đi nhanh hơn.
Tật Ách Cung: Nhát gan, tứ chi đau nhức, khí quản kém, bệnh gút, tim kém, dễ tiêu chảy, eczema, trĩ.
Thiên Di Cung: Ở nhà không yên, thích ra ngoài.
Nô Bộc Cung: Bạn bè đến đi nhanh, khó kết bạn tri kỷ, duyên khác giới tốt hơn đồng giới.
Quan Lộc Cung: Nếu có Khôi, Việt đồng cung, thích hợp công chức, phần lớn làm tiếp thị, y dược, hoặc công việc kỹ thuật.
Điền Trạch Cung: Nhà dễ dời đổi, hoặc ánh sáng kém, hoặc dột.
Phúc Đức Cung: Dễ lo lắng, mệnh lao lực, ý thức lo âu nặng, trách nhiệm cao, việc gì cũng không buông.
Phụ Mẫu Cung: Hiếu thảo, tôn trọng trưởng bối, duyên với mẹ tốt hơn.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Thiên Cơ + Cự Môn:
Cách cục này nếu năm sinh có chữ số cuối là 4 và 0 (tức Dân Quốc 44, 54, 64, 74 và 50, 60, 70, 80…), là cách nhà phát minh, cao thủ nghiên cứu. Nhưng để trở thành chuyên gia được công nhận (như tiến sĩ Lý Xương Dục nổi danh nhờ chuyên môn), phải có Mệnh Cung tam phương hội Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa, Thiên Khôi, Thiên Việt mới thật sự thành cách.
* Tiểu trạm quân đặc biệt nhắc nhở:
Dân Quốc 44 = 1955 năm Ất Mùi, Dân Quốc 54 = 1965 năm Ất Tỵ, Dân Quốc 64 = 1975 năm Ất Mão, Dân Quốc 74 = 1985 năm Ất Sửu, gặp năm Ất Mộc.
Dân Quốc 50 = 1961 năm Tân Sửu, Dân Quốc 60 = 1971 năm Tân Hợi, Dân Quốc 70 = 1981 năm Tân Dậu, Dân Quốc 80 = 1991 năm Tân Mùi, gặp năm Tân Kim.
Nữ dung mạo đẹp, nhưng là vẻ đẹp lạnh lùng, nếu Mệnh Cung lại hội đào hoa tinh, cả đời tình cảm chắc chắn không để trống.
Người Cơ Cự muốn thành công trong tình cảm, trừ phi có Lộc Tồn tương trợ, nếu không chỉ sợ là gian nan, đường tình xa xôi.
Mệnh Cung: Thông minh mưu lược, tài hoa nội liễm, đa nghi hay ghen, xử sự thiếu viên dung. Tính cách cố chấp, cứng miệng, tự phụ, chủ nghĩa cá nhân mạnh. Thiếu thân thiện, lời nói sắc bén, hay đắc tội người, trừ phi hội Xương, Khúc mới hóa giải.
Nam tính bảo thủ, không giỏi ăn nói, tự cao, dễ tự phụ, cô độc, hay coi thường người, dù thông minh trầm ổn nhưng quan hệ nhân tế cần cải thiện, nội tâm than thở tài không gặp thời.
Nữ phù phiếm nặng, lời nói bảo thủ, không biết khen ngợi, tính tình kỳ quặc, cảm xúc lên xuống lớn, rất bướng bỉnh.
Huynh Đệ Cung: Anh em không quá ba, ý kiến khó thông, thị phi nhiều, tình cảm anh em ít, mỗi người tự lo.
Phu Thê Cung: Hôn nhân nhiều trắc trở, đường tình gian nan, hay yêu nhầm người, lại dây dưa, đặc biệt bất lợi cho nữ, cả đời vì tình mà tổn thương là khó tránh.
Tử Tức Cung: Con cái nghịch ngợm hiếu động, dù thông minh, hay cãi lại, có khoảng cách thế hệ, lớn lên mỗi người tự lo.
Tài Bạch Cung: Không nên kiếm tiền đầu cơ, tiền khó giữ, thiếu khái niệm quản lý tài chính, càng không nên cờ bạc.
Tật Ách Cung: Hệ hô hấp, miệng răng, dị ứng, tim, suy nhược thần kinh, phế quản, cần phòng sỏi.
Thiên Di Cung: Quan hệ nhân tế kém, khả năng thích nghi môi trường kém, thị phi, khẩu thiệt nhiều, dễ gặp tiểu nhân.
Nô Bộc Cung: Không nên hợp tác, bạn bè vô ích còn liên lụy, nên cẩn thận chọn bạn, dễ kết bạn xấu, thuộc hạ không đáng tin.
Quan Lộc Cung: Thương mại, y dược, thiết kế mỹ thuật, hoặc dịch vụ, sống bằng miệng, nếu có Khôi, Việt đồng cung, thích hợp công chức, cũng có người làm kinh doanh đầu cơ.
Điền Trạch Cung: Thích ra oai trong nhà, nhà dễ có mối mọt, không nên làm quá nhiều gỗ.
Phúc Đức Cung: Hay tranh luận, thích bát quái, tâm đầu cơ mạnh, đa nghi, thích dò la tin đồn.
Phụ Mẫu Cung: Quan hệ cha con bất hòa, có khoảng cách, khó giao tiếp, duyên cha mẹ mỏng, hay có tranh cãi.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Thiên Cơ + Thiên Lương:
Cách cục này nếu có Xương, Khúc tinh và Phù Bật giao hội, trong xã hội phong kiến là văn quan thanh liêm không tham tài, võ quan không sợ chết, trung lương chi sĩ.
Nếu có sát tinh xung phá, người này lòng dạ quá sâu, ích kỷ tự lợi, theo nghề nghiệp hiện đại, là tham mưu trưởng, thư ký trưởng.
Người Cơ Lương tọa mệnh, cũng luận là cô độc, tính tình lập dị, dáng vẻ già dặn.
Thiên Cơ bất lợi cho anh em, Thiên Lương bất lợi cho chị em, gặp sát tinh hình thành “sớm hình muộn cô”, sẽ ứng nghiệm trên anh em hoặc hôn nhân.
Cơ Lương gặp Hoa Cái rất có duyên với tôn giáo, trừ phi hội “Địa Không hoặc Triệt Không” thì bớt cô độc.
Mệnh Cung: Giỏi ăn nói, thích cãi lý, miệng không chịu thua, trí tuệ cao, tinh minh năng động, lão luyện, khả năng tổ chức, lập kế hoạch, quan sát đều mạnh. Thích đấu trí, hay nói đạo lý lớn, thích ỷ già lên mặt, giỏi luận cổ bàn kim, nhưng lòng tốt, không giỏi từ chối, chỉ là nhỏ mọn, hay so đo, ghen tỵ, lười biếng luộm thuộm.
Nam sợ vợ, trung hậu thật thà, thích trò chuyện, hay tranh cãi, mê cờ bạc (nhiều người thích cờ bạc), tâm đầu cơ nặng, phản ứng nhanh, thiên văn địa lý đều thông, xử sự có mưu lược.
Nữ tinh minh năng động, làm việc có chừng mực, hiếu thảo với cha mẹ, lo gia đình, chỉ khi tranh cãi với người thì thường khiến đối phương biết khó mà lui, nhưng nội tâm cô tịch, già sẽ gửi gắm tâm hồn vào tôn giáo.
Huynh Đệ Cung: Anh em không quá ba, nếu có cát tinh giao hội, tình cảm anh em nhạt, bình thường không nói chuyện, nếu thêm sát tinh, cần phòng anh em tranh tụng, thị phi nhiều.
Phu Thê Cung: Muộn hôn chiếm đa số, hôn nhân nhiều sóng gió, hình thức hòa hợp nhưng tâm hồn xa cách, đặc biệt bất lợi cho nữ, nữ nên lấy chồng già, nam lấy vợ trẻ tốt hơn.
Tử Tức Cung: Con cái không vượng, nghịch ngợm hiếu động, nhưng thông minh, thấu hiểu.
Tài Bạch Cung: Tiền khó giữ, quản lý tài chính cần bảo thủ, không nên kiếm tiền đầu cơ.
Tật Ách Cung: Gan, mật không tốt (có Dương, Đà cần phòng xơ gan), nhịp tim không đều, tim kém, dạ dày kém dễ tiêu chảy, viêm bàng quang, nam dễ suy thận, nữ dễ lãnh cảm.
Thiên Di Cung: Có duyên với trưởng bối, thích ra ngoài, nhân duyên tốt, thích hợp di cư.
Nô Bộc Cung: Nếu không có sát tinh, bạn bè đắc lực, cũng được người lớn tuổi trợ giúp.
Quan Lộc Cung: Nếu có Khôi, Việt đồng cung, thích hợp công chức hoặc dịch vụ, sống bằng miệng, cũng có thể làm trong giới doanh nghiệp.
Điền Trạch Cung: Nhà gần bệnh viện, đoàn thể từ thiện, cây cối, nông sản, nếu không có sát tinh, bất động sản được trưởng bối giúp.
Phúc Đức Cung: Mệnh lao lực, việc gì cũng không buông, tâm đầu cơ mạnh, già tinh thần cô đơn, cô tịch (người sinh năm cuối số 4 chú ý mê cờ bạc như mạng).
Phụ Mẫu Cung: Được cha mẹ che chở, hoặc thừa hưởng gia sản, cha mẹ trường thọ, có tư tưởng tôn giáo.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
* Tiểu trạm quân nhắc nhở: “Phân chuột” nghĩa là sát tinh, như Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ.
DÒNG THÁI DƯƠNG
Tổ hợp song chủ tinh của dòng Thái Dương gồm: Thái Dương + Thái Âm, Thái Dương + Thiên Lương, Thái Dương + Cự Môn.
Thái Dương + Thái Âm:
Nhật, Nguyệt thích mượn cung, tọa Mệnh Cung ngược lại bất lợi cho cha mẹ, càng bất lợi cho hôn nhân, nam nữ đều vậy. Cách cục này gọi là “ngụy cách”, tức giống như cái bồn cầu vàng đẹp bên ngoài.
Thời xưa, người Nhật, Nguyệt mượn đối cung tọa mệnh, nếu được Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa, Thiên Khôi, Thiên Việt tương trợ, có thể làm quan tước hầu, tức hiện đại là cấp bộ trưởng, giám đốc sở.
Người Nhật, Nguyệt tọa mệnh, chịu xung kích âm dương, dù không có “phân chuột” quấy nhiễu, tính tình thay đổi thất thường, nói dối giỏi, vì chiếm tinh cha mẹ, vợ chồng trong một thân, tất yếu không duyên với cha mẹ, vợ, chồng, trừ phi có Lộc Tồn tương trợ, tổn hại giảm bớt.
Người mượn Nhật, Nguyệt, tuy không có chuyện khắc cha mẹ, nhưng sẽ ứng nghiệm trong hôn nhân của mình, tóm lại, tình cảm là nỗi đau cả đời.
Mệnh Cung: Hiếu thảo, lo gia đình, cầu toàn soi mói, EQ kém, cảm xúc thất thường, tính cách thay đổi, sáng lệnh chiều sửa, khá ích kỷ, hành sự thiếu bền bỉ, ba phút nhiệt huyết. Thích khoe khoang, bên ngoài kín đáo, bên trong nóng vội thô lỗ.
Nam tính trông bảo thủ, thực tế hướng ngoại hiếu động, tâm đầu cơ mạnh, cận thị, trọng lợi ngắn hạn, có kiên nhẫn nhưng thiếu bền chí, chủ nghĩa cá nhân mạnh, việc gì cũng lấy lợi mình làm trọng.
Nữ thích xen vào chuyện người, ngoài dịu dàng, trong bướng bỉnh, thay đổi khó lường, nhưng trọng quan niệm gia đình, lo cho nhà mẹ đẻ.
Huynh Đệ Cung: Tình anh em lúc lạnh lúc nóng, lúc tốt lúc xấu.
Phu Thê Cung: Tình cảm một sáng một tối, dễ đùa giỡn tình cảm, tro tàn bùng cháy hoặc đạp hai thuyền là chuyện thường.
Tử Tức Cung: Con cái hiếu động, thông minh có tài, cũng ám chỉ “chiên cơm” nhiều kiểu, “khẩu vị” thay đổi, lớn lên mỗi người tự lo.
Tài Bạch Cung: Có dấu hiệu hai nguồn thu nhập, thời gian làm việc không theo quy tắc 9 sáng 5 chiều.
Tật Ách Cung: Hệ hô hấp, miệng răng, dị ứng, tim, suy nhược thần kinh, phế quản, cần phòng sỏi.
Thiên Di Cung: Nên xa quê phát triển, thích ra ngoài, ở nhà không yên, tính cách hoạt bát hiếu động.
Nô Bộc Cung: Nếu Nô Bộc Cung ở (Mùi), bạn bè hoặc thuộc hạ nam giúp nhiều; nếu ở (Sửu), bạn bè hoặc thuộc hạ nữ giúp nhiều.
Quan Lộc Cung: Thời gian làm việc không cố định, hoặc hay tăng ca, thích hợp ngành truyền thông hoặc kỹ thuật.
Điền Trạch Cung: Nếu không có sát tinh giao hội, bất động sản dư dả.
Phúc Đức Cung: Cảm xúc, tâm trạng thất thường, gặp挫折 còn cuồng loạn.
Phụ Mẫu Cung: Quan hệ cha con tốt, cha mẹ hiền lành, tôn trọng cha mẹ, chịu ảnh hưởng lớn từ cha mẹ.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Thái Dương + Thiên Lương:
Dương, Lương ở Mão hoặc Dậu, vị trí chênh lệch rất lớn.
Luận người Thái Dương tọa mệnh, phải xem sinh ban ngày hay ban đêm, tiếp theo xem sinh tháng mấy. Thái Dương tọa mệnh tốt nhất là sinh ban ngày, tháng mùa xuân hè là tối ưu.
Dương, Lương ở Mão gọi là “Nhật xuất Lôi Môn cách”, cách cục rất tốt, còn gọi là “Thăng Điện”, ánh sáng Thái Dương hóa giải cô độc của Thiên Lương. Tuy nhiên, cách này không phải cách kinh thương, có thể là bác sĩ, đoàn thể từ thiện, tài chính, tư pháp, học giả, giáo sư, công chức.
Dương, Lương ở Dậu thì không thành cách, mặt trời lặn, làm gì cũng ba phút nhiệt huyết, tâm đầu cơ mạnh, miệng cứng như vịt chết, thích khoan lỗ pháp luật, nhát gan sợ việc, thích nói phét, có người vì rượu sắc mà hỏng việc.
Cung Phu Thê của người Dương, Lương tất là Thiên Đồng + Cự Môn, là một trong những tổ hợp bất lợi hôn nhân. Tình cảm nhiều sóng gió, nhưng cũng có ngoại lệ.
Hôn nhân tốt xấu liên quan đến cách vận hành cá nhân, không thể khái quát.
Mệnh Cung: Nam da kém, dễ mọc mụn, mặt hay bóng dầu, giọng to, tùy tiện, không câu nệ tiểu tiết, ăn mặc luộm thuộm, người ở cung Mão có duyên với trưởng bối.
Nữ trọng quan niệm gia đình, lo nhà mẹ đẻ, là đại tỷ nhiệt tình, ngoại hình hơi già, động tác mạnh mẽ, làm việc nhanh tay nhanh chân.
Huynh Đệ Cung: Tình anh em hòa hợp, chỉ cần không gặp sát tinh, có thể anh em kính nhường.
Phu Thê Cung: Chồng của nữ mệnh thật thà, chỉ là bản thân cảm xúc không ổn định; vợ của nam mệnh có vận giúp chồng, vợ hoặc lớn tuổi hoặc trông già dặn.
Tử Tức Cung: Là người cha/mẹ thứ 25 hiếu thảo, nuông chiều con, dẫn đến con lười biếng.
Tài Bạch Cung: Thích đầu tư đầu cơ, nếu sát tinh đồng cung, tiền đến thì đi.
Tật Ách Cung: Tay đứt, gan nóng, dạ dày kém, tim yếu, hoặc thuận tay trái, suy nhược thần kinh, nấm da, nhu cầu tình dục mạnh.
Thiên Di Cung: Tính hiếu động, năng nổ, có duyên với trưởng bối.
Nô Bộc Cung: Nếu Nô Bộc Cung ở (Mão), được người khác giới lớn tuổi giúp nhiều; nếu ở (Dậu), không có bạn tri kỷ, bạn bè giao thiệp vì lợi.
Quan Lộc Cung: Thích hợp ngành ăn uống, bất động sản, dịch vụ, y tế, du lịch, hoặc ngành kỹ thuật chuyên môn.
Điền Trạch Cung: Ở đất vượng, không có sát tinh giao hội, bất động sản dư dả, hoặc có gia sản.
Phúc Đức Cung: Không thích sạch sẽ, không trọng ngoại hình, nữ mệnh già sẽ cô đơn.
Phụ Mẫu Cung: Quan hệ cha con tốt, tôn trọng và hiếu thảo với cha mẹ, nhưng duyên với cha yếu hơn.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Thái Dương + Cự Môn (còn gọi là Cự Nhật đồng lâm cách):
Cự Nhật ở Dần hoặc Thân, cách cục có chênh lệch. Ở Dần mới thành cách, vì ánh sáng Thái Dương xua tan bóng tối của Cự Môn, cải thiện nhiều khuyết điểm của Cự Môn, nên gọi là “Minh nhật khu ám cách”.
Nhưng Cự Nhật ở Thân thì khác xa, mặt trời hoàng hôn không còn uy lực, ngược lại bị Cự Môn chế ngự.
Cự Nhật ở Dần tính tình ngay thẳng, trung thành với người, giọng to, thẳng tính, hành sự tích cực.
Cự Nhật ở Thân làm việc ba phút nhiệt huyết, thiếu kiên trì, miệng cứng như vịt chết, nói năng không đúng mực, đắc tội người là chuyện thường.
Mệnh Cung: Nam vóc dáng to, độ lượng lớn, trung hậu thật thà, chân thành, chịu khổ, bảo thủ nội hướng, ít nói.
Nữ tính bướng bỉnh, nhiệt tình với người, chú trọng ăn mặc, chiếm hữu tình cảm mạnh, dám yêu dám hận, đường tình khó khăn. Nữ ở Thân hơi nam tính, động tác mạnh mẽ, không chịu cô đơn, thích náo nhiệt, đa nghi nhưng hiếu thảo lo gia đình.
Nữ Cự Nhật trong vận hành tình cảm cũng nhiều sóng gió, kết hôn trước 30 tuổi hôn nhân khó bền, trừ phi hội Lộc Tồn, không có sát tinh xung phá.
Huynh Đệ Cung: Tình anh em dù hòa hợp, nhưng mỗi người tự lo, giúp đỡ lẫn nhau không nhiều.
Phu Thê Cung: Nam mệnh đa phần lấy vợ năng động, bị vợ quản chặt; nữ mệnh đa phần lấy chồng khổ cực cần kiệm, dù không có sát tinh quấy nhiễu, vợ chồng hay cãi vã. Nếu sát tinh nhập, người này dễ ngoại tình, đặc biệt nữ mệnh càng rõ.
Tử Tức Cung: Con cái hay cãi lại, giao tiếp cha con kém, nhiều tranh cãi, trẻ hoạt động mạnh, ở nhà không yên.
Tài Bạch Cung: Chỉ cần không có sát tinh, tiền tài ổn định, là tiền của người làm công, cũng có thể sống bằng miệng.
Tật Ách Cung: Có xu hướng bạc tóc sớm, da kém dễ bị eczema, tim yếu, phế quản kém, chú ý hệ tiết niệu, bệnh phụ khoa.
Thiên Di Cung: Không ngồi yên, thích ra ngoài, ở ngoài nhiều thị phi, khẩu thiệt, thường cố gắng không được đền đáp.
Nô Bộc Cung: Nếu Nô Bộc Cung có sát tinh, cần phòng bị bạn bán đứng, bạn bè nhiều nhưng vô ích, không giúp gì mình.
Quan Lộc Cung: Thích hợp ngành ăn uống, dịch vụ, nghiên cứu, giáo dục, tiếp thị, đều mang tính chuyên môn.
Điền Trạch Cung: Ở đất vượng, không có sát tinh giao hội, bất động sản dư dả, nội thất gu thẩm mỹ cao, ở Thân thì không luận như vậy.
Phúc Đức Cung: Tính nóng vội, động tác chậm, đa nghi, ý thức lo âu mạnh, càng già càng cô độc, thần kinh, hay chấp nhặt.
Phụ Mẫu Cung: Giao tiếp cha con kém, có khúc mắc, hiếu nhưng không thuận, dễ tranh cãi, nói năng thiếu lớn nhỏ.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
Tiểu trạm quân nhắc nhở: “Phân chuột” nghĩa là sát tinh, như Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ.
VŨ KHÚC + THAM LANG:
Trong cách cục của Vũ Khúc có ba đại cát cách: Vũ Phủ, Vũ Tướng, Vũ Tham. Cổ thư viết: “Vũ Tham không phát ở người trẻ”, ý nói người Vũ Tham cần trải qua gian khó mới thành đại khí. Vũ Phủ là đại phú, Vũ Tham là đại thương, hai cách này đều vượng sau trung niên, nhưng thành đại phú, đại thương đâu dễ? Mệnh cách tuy có điều kiện giàu có, nhưng còn phải dựa vào đại vận để thực hiện. Có người dù là cách đại phú, đại thương, nhưng cả đời không gặp đại vận phát đạt, chỉ đành than thở với cách vượng này.
“Cả đời không gặp đại vận phát đạt” là gì? Tức là phá cách. Nếu cách này bị “phân chuột” phá hoại, hoặc đại vận có “phân chuột” quấy nhiễu, đại phú, đại thương chỉ là giấc mộng làm giàu. Dù có phát, cũng thành rồi bại, cuối cùng chỉ còn ký ức “từng sở hữu”.
Vũ Tham gặp sát thành gian thương, Vũ Phủ gặp sát thành giàu bất nhân, cả hai trong cầu tài đều có nghi ngờ không từ thủ đoạn. Đặc biệt người Vũ Tham cần cát tinh hội hợp mới thành phú quý, nếu bị nhiều “phân chuột” xung phá, ngược lại thành người làm đủ nghề, cả đời phúc khí không toàn, bôn ba phiêu bạt. Vũ Tham được cát tinh vây quanh, người keo kiệt yêu tiền; Vũ Tham quá nhiều “phân chuột” lại hào phóng quá độ. Phản ứng cát hung thật là hai cực.
Cách Vũ Tham dù nam hay nữ, chiều cao không nổi bật, nhưng diện mạo đều đẹp, thích náo nhiệt, thích rượu thịt, thích tụ tập ăn uống, phần lớn thời thơ ấu gia vận tốt.
Trong bảy “phân chuột”, chỉ có Hỏa Tinh, Linh Tinh cùng Vũ Tham hình thành “Hỏa Quý cách”, lại là “thương trường đắc ý cách”, bảy “phân chuột” bị loại hai. Nhưng không được hội với “phân chuột” khác, nếu không cách cục bị phá.
Mệnh Cung: Nam bảo thủ nội hướng, thân thiện mạnh, trọng cam kết, giảng nghĩa khí, tôn trọng trưởng bối, chỉ là chi tiêu không đủ hào phóng (trừ phi hội “phân chuột”), cần kiệm giữ nhà, chịu khổ.
Nữ tính mạnh mẽ, hay chấp nhặt, không ngồi yên, thích bận rộn, bước chân nhanh, chú trọng chất lượng cuộc sống, thích đắp mặt nạ, tập yoga, là nội trợ giúp chồng, rất biết tiết kiệm (trừ phi hội “phân chuột”). Nếu đồng cung với Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh, có khả năng thay chồng nắm quyền.
Huynh Đệ Cung: Nếu không có “phân chuột”, tình anh em rất tốt, nhưng không nên dính đến tiền.
Phu Thê Cung: Tình cảm nhiều trắc trở, phiền não, người kia năng động, cần muộn hôn, sau hôn nhân khó tránh đào hoa.
Tử Tức Cung: Là cha mẹ thứ 25 hiếu thảo, nếu không có “phân chuột” phá hoại, con cái có thành tựu, độc lập tự lập.
Tài Bạch Cung: Đối với tiền càng nhiều càng tốt, không bao giờ thỏa mãn, tự kiểm soát tiền, không cho phép người khác can thiệp, hỏi han.
Tật Ách Cung: Trung niên cần phòng tiểu đường, da dễ dị ứng, viêm bàng quang, bệnh tim phổi, bệnh gan mật.
Thiên Di Cung: Không ngồi yên, dễ bị cám dỗ bên ngoài, duyên khác giới tốt, quan hệ nhân tế vượng, thích hợp công việc kinh doanh.
Nô Bộc Cung: Dễ kết bạn thích chơi bời, bạn bè, thuộc hạ không đáng tin, cần phòng bạn cướp tiền.
Quan Lộc Cung: Thích hợp ngành kỹ thuật, đại lý, tài chính, điều dưỡng.
Điền Trạch Cung: Nếu không hội “phân chuột”, điền sản tất dư dả, thời nhỏ gia vận tốt.
Phúc Đức Cung: Yêu tiền, thích tích trữ tiền riêng, chỉ chú trọng hưởng thụ bản thân, thường bỏ qua gia đình.
Phụ Mẫu Cung: Nếu không hội “phân chuột”, hiếu thảo với cha mẹ, nhưng có người có thể có “chú, dì”, cha mẹ hôn nhân có vấn đề, mỗi người có tư tình.
VŨ KHÚC + THIÊN PHỦ:
Vũ Khúc mang đến năm cách cục mạnh mẽ khác nhau. Cách cục lớn nhất, tốt nhất không gì ngoài tổ hợp Vũ Khúc + Thiên Phủ, mà tổ hợp này ở vị trí “Tý” có thành tựu nhất.
Trong Đẩu Số có ba tài tinh: Vũ Khúc, Thiên Phủ, Thái Âm. Nhưng Vũ Khúc và Thái Âm là lục hợp, không thể đồng cung, còn Vũ Khúc và Thiên Phủ có cơ hội tạo thành song tài tinh đồng cung, thuộc cách Vũ Khúc tiến tài, còn bao gồm Vũ Khúc + Thiên Tướng, Vũ Khúc + Tham Lang.
Vũ Khúc + Thiên Phủ thích nhất nhập Mệnh Cung, Tài Bạch Cung, Điền Trạch, Quan Lộc Cung, hoặc Thiên Di Cung. Nếu nhập các cung khác, thật đáng tiếc cho hai tài tinh này.
Còn Vũ Khúc + Thất Sát và Vũ Khúc + Phá Quân là hai cách phá tài tệ nhất trong Vũ Khúc. Cách này nếu tự kinh doanh, đa phần là bận rộn vô ích, dù có lúc phát ngang, nhưng tiếp theo là phá ngang, tự phá tài không nói, chỉ sợ còn liên lụy cả đám người xung quanh.
Vũ Khúc + Thất Sát và Vũ Khúc + Phá Quân nhất định phá bại không ngoại lệ sao? Có! Trừ phi hội Lộc Tồn thì hóa giải được, hoặc không cùng cư với Tiệt Không, sẽ làm mất tính không biết sống chết của nó.
Vũ Phủ, Vũ Tướng, Vũ Tham, tuy có cách tiến tài, nhưng chắc chắn chỉ ngồi đợi phát sao? Chưa chắc! Còn phải (1) tam phương hội Lộc Tồn hoặc Hóa, (2) tam phương không có sát tinh xung phá, mới thật sự thành cách tiến tài.
Vũ Phủ, Vũ Tướng, Vũ Tham bị tiền đuổi đến chạy trốn phá sản cũng không ít! Gặp sát tinh xung phá, lỗ hổng tiền tài lớn hơn người thường nhiều!
Mệnh Cung: Hơi thực dụng, luôn hướng về tiền, bên ngoài mạnh mẽ, tính nóng như gió, nội tâm không có cảm giác an toàn với tiền, dù tiêu tiền thế nào, kêu nghèo ra sao, họ chắc chắn có tài khoản bí mật cất tiền riêng. Thành tựu của người Vũ Phủ đa phần thể hiện sau trung niên, trẻ tuổi tất phải trải qua gian khó. May mắn là họ bền bỉ chịu đựng.
Nam phóng khoáng hào sảng, sĩ diện chịu khổ, trọng nghĩa khí, dám mạo hiểm, dám xông, dám đánh cược, có xung lực, tham vọng lớn, cả đời lấy “làm ông chủ” làm chí hướng, nhạy bén với tiền tài, chỗ nào có tiền thì chen vào, đôi khi khiến người ta cảm thấy quá thực tế, quá công lợi, vì họ không làm việc vô ích.
Nữ tài trí song mỹ, tinh minh năng động, thuộc kiểu nữ cường nhân, phong cách mạnh mẽ, dứt khoát, trọng ăn, trọng mặc, trọng gu thẩm mỹ, nhưng tính độc lập quá mức dễ thay chồng nắm quyền, tính bá đạo, trong tình cảm là nhóm thất ý, hôn nhân thường không được xem trọng. Ở họ khó cảm nhận được hai chữ “ôn nhu”.
Huynh Đệ Cung: Anh em quá mạnh mẽ, tình cảm anh em khá tốt, nhưng nổi giận cũng đáng sợ, nếu có Xương, Khúc trong cung, tổn hại giảm bớt.
Phu Thê Cung: Nếu có sát tinh, hôn nhân nhiều sóng gió, hôn đầu bất lợi, tái hôn tốt hơn, vợ chồng đều mạnh mẽ, đều muốn kiểm soát đối phương, đặc biệt bất lợi cho nữ, người kia tuy năng động nhưng giao tiếp kém là chuyện thường.
Tử Tức Cung: Tử Tức Cung vượng ngược lại chủ cô độc, con cái không nhiều, chủ quan, tự ngã mạnh, độc lập tự chủ, nếu trong cung không có sát tinh, con cái tương lai thành tựu tốt.
Tài Bạch Cung: Tài tinh nhập Tài Cung, thật tuyệt vời, cả đời tiền tài không thiếu, hưởng thụ vật chất, tinh thần đều khiến người ta ngưỡng mộ. Nhưng nếu sát tinh tọa trong, thì thảm, tiền đến tiền đi nhanh hơn.
Tật Ách Cung: Tinh quý như vậy nhập cung này, thật đáng tiếc, không bệnh thì thôi, bệnh là bệnh phú quý tốn tiền tốn thời gian, lá lách dạ dày kém, dễ tiêu chảy, loét dạ dày, axit dạ dày, ợ hơi, nữ cần phòng tăng cân.
Thiên Di Cung: Ở nhà không yên, quan hệ nhân tế tốt, có duyên trưởng bối, phạm vi hoạt động rộng, thích ra ngoài, muốn thành tựu phải xa quê phát triển.
Nô Bộc Cung: Bạn bè đều quý hơn bạn, tuy kết giao được bạn bè có danh vọng, nhưng chỉ là quen biết xã giao, không giúp ích, đôi khi còn bị “ăn no đủ”.
Quan Lộc Cung: Nếu có Khôi, Việt đồng cung, thích hợp công chức, cách cục này tâm cao hơn trời, tham vọng lớn, công việc nhỏ, sự nghiệp nhỏ không thèm để mắt, thích hợp thương mại, truyền thông, kiến trúc, dịch vụ, thông tin, không nên hợp tác.
Điền Trạch Cung: Nhà diện tích lớn, tầng cao, tài tinh thích nhất nhập khố, có thể nói khố vượng hơn tài vượng, nhưng hội sát tinh cũng chỉ là vui mừng hụt, phá khố khó giữ, bất động sản dễ hao tổn.
Phúc Đức Cung: Mệnh lao lực, ý thức lo âu nặng, việc gì cũng không buông, càng già càng cô độc, lải nhải, bá đạo, tự ngã, không lý lẽ, thích hoạt động ngoài trời.
Phụ Mẫu Cung: Tôn trọng trưởng bối, trưởng bối có danh vọng, chú trọng giáo dục con cái, nhưng lòng báo đáp không đủ.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
VŨ KHÚC + THIÊN TƯỚNG:
Cương nghị của Vũ Khúc gặp Thiên Tướng, phần nào hóa giải đặc tính “quả túc” của Vũ Khúc. Trong tổ hợp song tinh của Vũ Khúc, với nữ giới, Vũ Tướng có nét nhu, bề ngoài trông còn chút nữ tính, nhưng bên trong vẫn hơi thô, vì đối cung là Phá Quân, nên tính cách vẫn mang đặc điểm của Vũ Phá, thay đổi thất thường, trước lễ sau binh, chọc giận cô ấy, sẽ mắng bạn bằng ba chữ kinh, trở mặt nhanh như gió.
Thành tựu của Vũ Tướng ở Thân tốt hơn Dần, do ảnh hưởng ngũ hành sinh khắc.
Người Vũ Tướng nhiệt tình, rất hợp ngành dịch vụ, nhiều người Vũ Tướng làm hai nghề, sáng tối mỗi nghề một tính chất khác nhau. Tư tưởng của họ là “kiếm tiền là trên hết”.
Người Vũ Tướng tam phương hội Thiên Khôi hoặc Thiên Việt, là mệnh công chức. Nếu hội Văn Xương hoặc Văn Khúc, là cách văn võ song toàn. Nhưng với nữ là phá cách, nếu không có Lộc Tồn chế hóa, một số nữ Vũ Tướng hành vi phóng túng, như bướm hoa lượn lờ.
Hội Văn Xương hoặc Văn Khúc, nữ Vũ Tướng tìm việc đa phần chọn ngành dịch vụ trước, nhưng ngành dịch vụ đa dạng, một số loại dịch vụ có tính chất đáng suy ngẫm.
Nếu Vũ Tướng đồng cung với Thiên Mã, chỉ cần họ chịu học múa, chắc chắn có cơ hội lên danh sách “cao thủ vũ lâm”.
Vì Phu Thê Cung tọa Tham Lang, phúc phận tình cảm khá yếu.
Mệnh Cung: Nhiệt tình phục vụ, tham vọng kiếm tiền lớn, rất tận tụy, bền bỉ chịu đựng, luôn tìm đường tài, trọng hình ảnh, việc gì cũng dựng khẩu hiệu trước, chú trọng chất lượng, không qua loa, yêu cầu bản thân cao, tương đối cũng yêu cầu người khác cao, nên ai không đạt yêu cầu thường bị mắng tơi bời, nhưng họ đối đãi người trọng cam kết.
Nam theo quy củ, rất tận tụy, khái niệm quản lý tài chính tốt, chịu khổ, chỉ cần có tiền kiếm, làm vài việc cũng được, chỉ là dáng không cao, tính nội liễm ít nói, đa phần có kỹ năng chuyên môn.
Nữ tinh minh năng động, kiểu nữ cường nhân, phong cách mạnh mẽ, miệng sắc bén, ngoại hình đẹp, trọng ăn, trọng mặc, trọng gu thẩm mỹ, cố chấp hào sảng, ngoài nhu trong cương, là cô nàng ớt cay, nữ mệnh đa phần làm dịch vụ, quan hệ công chúng, truyền thông, tài chính, cũng có người làm dịch vụ đặc biệt.
Huynh Đệ Cung: Chỉ cần không có sát tinh, tình anh em sâu đậm, giúp đỡ lẫn nhau, có nghĩa thông tài, anh em nhiều hơn chị em.
Phu Thê Cung: Nam mệnh lấy vợ có vận giúp chồng, nữ mệnh lấy chồng khó chu đáo, hơi thô, tình cảm đầu nóng cuối lạnh, nếu có sát tinh, hôn nhân khó bền, giao tiếp kém là chuyện thường.
Tử Tức Cung: Con cái tự ngã mạnh, độc lập tự chủ, tình cảm với con nhạt.
Tài Bạch Cung: Tài tinh nhập Tài Cung, cả đời tiền không thiếu, nếu không có sát tinh, tiết kiệm và có khái niệm quản lý tài chính, nếu có sát tinh, tuyệt đối không làm tài chính, không đầu tư, nếu không tiền đến tiền đi nhanh hơn.
Tật Ách Cung: Phế quản, hệ hô hấp, hệ tiết niệu, thoát vị, tuyến giáp, nếu sát tinh nhập cần chú ý ung thư đại tràng, khả năng tình dục tốt.
Thiên Di Cung: Ở nhà không yên, thích ra ngoài, phạm vi hoạt động rộng, giỏi dùng quan hệ nhân tế, trọng mặt mũi, giảng nghĩa khí, muốn thành tựu phải xa quê, cả đời bôn ba.
Nô Bộc Cung: Không thể hợp tác với bạn, cẩn phòng bạn cướp tiền, có sát tinh dễ kết bạn vô nghĩa, dễ bị bán đứng.
Quan Lộc Cung: Thích hợp ngành thời trang, hàng hiệu, trang sức, ăn uống, tài chính, thương mại, truyền thông, dịch vụ, văn hóa, thông tin.
Điền Trạch Cung: Tài tinh thích nhất nhập khố, nếu tam phương không hội sát tinh, bất động sản rất giàu, thậm chí có gia sản, nếu sát tinh xung phá, phá khố khó giữ, bất động sản dễ hao tổn.
Phúc Đức Cung: Thích náo nhiệt, thích đẹp, thích hoạt động ngoài trời, thích phục vụ đại chúng, nhiệt tình lăng xăng.
Phụ Mẫu Cung: Cha mẹ chú trọng giáo dục con, lớn lên trong yêu thương, nếu không có sát tinh xung phá, tình cảm cha con tốt.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
VŨ KHÚC + THẤT SÁT:
Vũ Khúc tài tinh gặp Thất Sát, thật là tổ hợp bất lợi cho tiền tài, hơn nữa hai tinh này đều thuộc Kim, nên người Vũ Sát tọa mệnh tính tình cương liệt, nhưng cử chỉ bên ngoài có chừng mực, người không hiểu khó tưởng tượng khi người Vũ Sát gặp bức xúc, họ sẽ cuồng loạn gào thét (hơi giống Trần X Dục).
Người Vũ Sát tín phụng “tôn giáo bái tiền”, cả đời vì tiền mà xông! xông! xông! Nhưng do tính cách cương nghị, chỉ biết tiến không biết lùi, thường khiến bản thân kiệt sức, công sức đổ sông đổ biển. Người Vũ Sát dựa vào sức mạnh không thỏa hiệp, không chịu thua, không cúi đầu trước hoàn cảnh, một số người may mắn nhờ đó đánh ra một mảnh trời, nhưng thành nhờ xung lực, bại cũng vì xung lực, cuối cùng về số không. Vận thế cả đời như tàu lượn siêu tốc, lên xuống lớn, khiến người xung quanh toát mồ hôi lạnh.
Người Vũ Sát là nhân viên tốt, vì bền bỉ chịu đựng, trung thành với công việc, trách nhiệm nặng, có đảm đương, tính cách này làm ông chủ, khổ là nhân viên. Vì họ không phải ông chủ biết cảm thông thuộc hạ, họ nghĩ ông chủ chịu khổ được, nhân viên dựa vào đâu mà nhàn hạ? Thêm vào dục vọng quyền lực mạnh, thích ra lệnh, một số người Vũ Sát cầm lông gà làm lệnh tiễn, trong tập thể khó tránh bị oán trách.
Thực tế người Vũ Sát mặt ác tâm thiện, tuy tính nóng như gió, nói năng mạnh mẽ giọng to, thực ra họ như con thằn lằn dọa người, trông hung dữ đáng sợ, nhưng rất nhát gan, người Vũ Sát trọng cam kết, trọng nghĩa khí, chủ quan, muốn thay đổi ý họ, trừ phi thay cái đầu cho họ còn nhanh hơn.
Mệnh Cung: Nam tính cố chấp, bướng như trâu, chủ quan nặng, quyết định rồi chín trâu không kéo nổi, cả đời bôn ba lao lực, tính ngay thẳng không biết uốn lưỡi, vui giận lộ rõ, là kẻ nói dối tệ nhất, nói dễ nghe là trung thực thiện lương, nhưng người thường sẽ gọi là “ngố”.
Nữ Vũ Sát rất bất lợi cho nữ mệnh, tính cách vừa xung vừa thẳng, phong cách nam tính, bá đạo chủ quan, có tố chất lãnh đạo, một nữ Vũ Sát bằng hai nam nhân, xử sự rõ ràng, chịu được thách thức, trên thương trường có thể so tài với nam, nhưng đặc điểm này trong hôn nhân khó viên mãn.
Huynh Đệ Cung: Tình anh em nhạt, nhiều tranh cãi, lớn lên, dùng lời tiểu thuyết võ hiệp: “anh hùng lên ngựa, mỗi người một hướng”.
Phu Thê Cung: Dù nam hay nữ, tình cảm nhiều trắc trở, khó kết hôn, dù cưới, người kia không lãng mạn, không hiểu phong tình, mắt chỉ có tiền, đời sống hôn nhân khó hòa hợp.
Tử Tức Cung: Duyên con mỏng, con cái tính cương liệt khó dạy, nếu có “phân chuột” gặp Không, dễ sảy thai, nặng hơn có thể sinh con khuyết tật.
Tài Bạch Cung: Không có khái niệm tiền bạc, chi tiêu hào phóng, làm ăn thua nhiều hơn thắng. Tổ hợp này cách biệt giàu nghèo một đường, hôm qua còn là đại gia đáng ngưỡng mộ, qua đêm thành kẻ chạy trốn khốn khó.
Tật Ách Cung: 1. Dạ dày kém, chú ý bệnh trực tràng. 2. Cột sống kém, cơ xương đau nhức. 3. Hệ hô hấp, phế quản kém. 4. Nhu cầu tình dục mạnh, nếu có Kình Dương đồng cung dễ có tai họa huyết quang.
Thiên Di Cung: Ở nhà không yên, thích ra ngoài, cả đời có nhiều cơ hội xuất ngoại, ở ngoài thích kết bè lập phái, tham gia đoàn thể.
Nô Bộc Cung: 1. Cần phòng bạn cướp tiền. 2. Cẩn thận chọn bạn, tránh bị hãm hại. 3. Bạn bè tinh không cần nhiều, không được qua lại tiền bạc.
Quan Lộc Cung: 1. Khởi nghiệp theo sức, kinh doanh bảo thủ. 2. Thích hợp du lịch, giải trí, ăn uống. 3. Để tránh đời lên xuống lớn, tốt nhất làm công ăn lương.
Điền Trạch Cung: Tự lập, không hợp tự quản tiền, nếu trong cung có “phân chuột”, bất động sản có hao tổn.
Phúc Đức Cung: Mệnh lao lực, không ngồi yên, không có việc cũng phải tìm việc làm kẻo bệnh. Chi tiêu dứt khoát, chỉ cầu một chữ sảng, già có thể làm tình nguyện viên ở tổ chức từ thiện.
Phụ Mẫu Cung: Giao tiếp cha con kém, hay tranh cãi, một trong hai cha mẹ tính nóng, cương liệt, cố chấp.
VŨ KHÚC + PHÁ QUÂN:
Đây là tổ hợp tệ nhất trong Vũ Khúc, tài tinh gặp Phá, như có thù với tiền, tiền tài phá hoại, cả đời phiêu bạt lao lực, nhưng tổ hợp này cũng có người thành phú quý, phải hai tinh miếu vượng + Lộc Tồn, không có sát tinh xung phá mới thành cách, nếu không, đa phần là thần tài thoáng qua, kiếm không đủ tiêu, cả đời sống trong phá tài.
Người Vũ Phá phá tài, đa số do tự mình chi tiêu không đúng, nhưng cũng có ngoại lệ, bị bạn bè thân thích liên lụy mà phá tài, dù vì lý do gì, tóm lại, người Vũ Phá cả đời đuổi theo tiền là định số.
Người Vũ Phá có cát tinh tương trợ, ngược lại là người giữ chức vụ quan trọng, hoặc nắm quyền, nhưng gặp sát tinh, là nhân vật đau đầu trong mắt cha mẹ, thầy cô, vận thế cả đời như tàu lượn siêu tốc, lên xuống lớn, xem tiền như không, chi tiêu chỉ cầu một chữ “sảng”, chỉ cần là ăn uống chơi bời, hỏi họ chắc chắn đúng. Thêm tính cách bất kham, làm việc không theo lý lẽ, cố chấp hào sảng, là quý nhân trong mắt bạn bè, tiểu nhân trong mắt gia đình, để đạt mục đích, không tiếc giá nào. Hơn nữa EQ kém, trở mặt như gió, mắng người không nể mặt, người này tự nhận đó là “tính cách, ngầu”.
Người Vũ Phá tín phụng “tôn giáo bại tiền” (khác với Vũ Sát bái tiền một chữ), cả đời vì tiền mà tiêu! tiêu! tiêu! Họ có năng lượng vô tận, là tiên phong mở đất, nhưng chỉ làm người khai hoang, không làm người giữ nghiệp. Bất kỳ sự việc hoàn thành, đến tay họ, chỉ sợ phá bại tan tành, do ảnh hưởng tính cách lông bông, tùy tiện, người Vũ Phá thường tự tay phá hủy giang sơn mình đánh xuống vì không biết vận hành, thật đáng tiếc.
Mệnh Cung: Nam thích kích thích, hơi có phong vị giang hồ, dám mạo hiểm, dám đầu cơ, không biết chữ “sợ” viết thế nào, tính nóng như gió, thích thể hiện, thích đua xe, có người còn thích để ria mép, tự nhận tính cách tuyệt vời, miệng hay nói bậy, thường có ba chữ, năm chữ chân ngôn! Cả đời trong sóng gió, lớn lên trong bão tố, sống trong lên xuống lớn, tính cố chấp, bướng như xi măng, chủ quan nặng, vui giận lộ rõ.
Nữ Vũ Phá cũng bất lợi cho nữ mệnh, tính hào sảng, thích sĩ diện, phong cách nam tính, bá đạo chủ quan, không thích mặc váy, ngồi không yên, đôi khi khiến người ta cảm thấy đứng không ra đứng, ngồi không ra ngồi, thích mua đồ sáng lấp lánh, không chịu ràng buộc, quan niệm gia đình nhạt, mong tình yêu, nhưng thiếu kiên nhẫn vận hành tình yêu, ôm thái độ “hợp thì tụ, không hợp thì tan”, chỉ cần cảm thấy bị trói buộc, liền muốn chạy trốn nói tạm biệt!
Nữ Vũ Phá tọa mệnh, hơi có cảm giác mỹ trung bất túc.
Huynh Đệ Cung: Anh em mỗi người tự lo, không ai quan tâm ai, đôi khi vì tiền mà trở mặt, nữ sẽ có vấn đề mẹ chồng nàng dâu, sau hôn nhân không nên sống chung với bố mẹ chồng.
Phu Thê Cung: Đời sống hôn nhân không bình yên, cãi vã lớn nhỏ liên tục, nếu có sát tinh nhập, hôn nhân bất chính, khả năng tái hôn rất cao, đời sống tình cảm phức tạp.
Tử Tức Cung: Lao tâm vì con, sợ phải trả giá lớn, hữu hình là tổn thất tiền bạc, vô hình là lo lắng tinh thần, con cái ba năm năm lần gây chuyện, khiến cha mẹ mệt mỏi chạy theo. Vũ Phá ở Tử Tức Cung, con cái không vượng, nữ có khả năng sảy thai nhiều lần, đa phần là mang thai trước cưới.
Tài Bạch Cung: Vũ Phá sợ nhất nhập Tài Bạch Cung, cả đời gặp bão (trừ phi có Lộc Tồn đồng cung, nhưng không được có sát tinh), là tổ hợp tán tài đồng tử, không có khái niệm quản lý tài chính, kiếm một nghìn tiêu một vạn, tiền mãi không đủ, người này lại không biết tiết chế, muốn giữ tiền, tốt nhất để người khác quản lý.
Tật Ách Cung: Hệ hô hấp kém, phế quản kém, có bệnh miệng, tứ chi dễ bị thương, khẩu vị nặng, dễ ăn uống quá độ, dạ dày kém tiêu chảy, cần phòng bệnh tim phổi, khả năng “chiên cơm” rất mạnh.
Thiên Di Cung: Là mệnh bôn ba, không ngồi yên, ở nhà không được, cả đời chịu nhiều biến động và bôn ba, tiếp xúc người tùy tiện, không câu nệ tiểu tiết, không quan tâm quy tắc tầm thường.
Nô Bộc Cung: Khó kết bạn tri kỷ, bạn bè, thuộc hạ không đắc lực, bản thân thường cố gắng không được đền đáp, cẩn phòng bạn cướp tiền.
Quan Lộc Cung: 1. Không nên làm tài chính, sản xuất. 2. Cả đời có nhiều cơ hội đổi nghề. 3. Sự nghiệp lên xuống lớn, tốt nhất làm công ăn lương. 4. Thích hợp kinh doanh, thương mại, tiếp thị, nghiên cứu, ăn uống, phá dỡ.
Điền Trạch Cung: Chất lượng nhà kém, trong nhà bừa bộn, môi trường ngoài trời kém, dễ ở nhà dột, Vũ Phá nhập Điền Trạch Cung, cần chú ý bất động sản hao tổn, mua nhà phải lượng sức.
Phúc Đức Cung: Chi tiền như nước, chỉ cầu một chữ “sảng”, càng già tính càng kỳ quặc, già vẫn phải lo tiền.
Phụ Mẫu Cung: Cha mẹ tình cảm không hòa hợp, duyên cha mẹ nhạt, cha mẹ lao lực, đối cha mẹ hiếu nhưng không thuận, khó tận hiếu.
THIÊN ĐỒNG + THÁI ÂM:
Đây là tổ hợp nhàn nhã, an nhàn nhất trong Thiên Đồng. Nếu nam có cách này thì không tốt, ngoài thiếu thái độ hành sự tích cực, thế giới tình cảm cũng đa sắc đa màu. Nữ cũng không khá hơn, cả đời vì tình mà khốn là khó tránh.
Người Đồng, Âm ở Tý hoặc Ngọ, vị trí tọa lạc ảnh hưởng cách cục cả đời, trong đó Tý là lợi thế nhất, nếu lại hội sáu cát tinh, hình thành “Thủy trừng quế ngạc cách”, là văn quan trung gián, tiền đồ sáng lạn. Người Đồng, Âm ở Ngọ do tinh hãm địa, cả đời lao lực, chỉ sợ không thành tựu. Muốn thành tựu sự nghiệp, phải trả giá nhiều hơn người thường.
Cách cục Đồng, Âm khá yếu, không có sức kháng sát tinh, đặc biệt với tình cảm càng là tuyết thêm sương, vì Đồng, Âm đều thuộc Thủy, Thủy chủ đào hoa, dù nam hay nữ, dục tình đều nặng, hơn nữa định lực kém, chí khí không đủ, không buông được tình cảm, do đó ảnh hưởng sự nghiệp, là rất bất trí!
Người Đồng, Âm đối người hiền lành, không có tính công kích (trừ phi hội quá nhiều sát tinh), nếu đặt tình cảm ở vị trí thứ hai, thành tựu đời này chắc chắn không giới hạn. Thiên Đồng tọa mệnh + Văn Khúc gọi là “Yên tiêu vân tán cách”, là cát trung tàng hung, hành sự ba phút nhiệt huyết, lại tự cao, gặp khó khăn thì rút lui trước, dù có chút thành tựu, cũng thành một thời, bại một đời, người có cách này không thể không tự cảnh tỉnh.
Mệnh Cung: Nam duyên khác giới tốt, đào hoa nặng, dáng cao dong dỏng, trầm ổn, rất được nữ thích, trưởng thành sinh lý sớm, yêu sớm, nhưng hôn nhân đến muộn, nói năng nhẹ nhàng, chu đáo, tính do dự, đặc biệt với tình cảm dây dưa không dứt, không biết từ chối, không忍 từ chối, dễ sa vào bùn lầy tình cảm, nói dễ nghe là “mềm lòng”, nói thẳng là “người tốt bừa bãi”.
Nam Đồng, Âm ưu điểm là lạc quan, họ nghĩ “núi không xoay, đường xoay. Đường không xoay, người xoay”, mọi việc luôn có ngày xoay chuyển, sao phải đẩy mình vào tuyệt cảnh? Đó là triết lý xử sự, nhưng với tình cảm thì hoàn toàn không phải vậy!
Nữ thông minh lanh lợi, giỏi trang điểm, đáng yêu là vốn lớn nhất, trông như tâm hồn trẻ thơ, hoạt bát, giỏi giả nai, dịu dàng thấu hiểu, phụ thuộc nặng, phù phiếm càng nặng, thích hưởng thụ, thích bát quái, biết phóng điện với khác giới, không biết từ chối, thường vướng tam giác tình.
Huynh Đệ Cung: Tình anh em nồng đậm, nếu không có sát tinh xung phá, có anh em đáp ứng mọi yêu cầu.
Phu Thê Cung: Nam có thể lấy vợ hiền, có vận giúp chồng. Nhưng nữ thì tệ! Lấy chồng vô ích, khó hưởng phúc chồng, đời sống hôn nhân không bình yên, gập ghềnh, nếu có sát tinh nhập, hôn nhân không giữ được, khả năng tái hôn rất cao, muộn hôn tốt hơn.
Tử Tức Cung: Con cái thông minh lanh lợi, thấu hiểu, trầm tĩnh nội hướng lười biếng, phụ thuộc nặng, đến để hưởng phúc.
Tài Bạch Cung: Là thu nhập ổn định của người làm công, chỉ cần không cờ bạc, không đầu cơ, cả đời tiền tài bình thuận.
Tật Ách Cung: Tim kém, nhịp tim không đều, dạ dày kém, sa dạ dày, thị lực kém, phế quản kém, khẩu vị nặng, cần phòng bệnh tim phổi, khả năng “chiên cơm” mạnh, trung niên phòng tiểu đường, bàng quang dễ viêm, nhỏ dễ đái dầm.
Thiên Di Cung: Tiếp xúc người có lễ, thân thiện mạnh, nhân duyên tốt, chỉ là định lực tình cảm kém. Hài lòng hiện trạng, cả đời không có biến động lớn.
Nô Bộc Cung: Nếu có sát tinh, bạn bè, thuộc hạ đều không đắc lực, dễ gặp người xấu. Không có sát xung, kết bạn thuận lợi.
Quan Lộc Cung: Là công chức hoặc nhân viên công ty lớn, hoặc tiếp thị, nghiên cứu, dịch vụ, ăn uống.
Điền Trạch Cung: Đồng, Âm nhập Điền Trạch Cung, nhà ánh sáng tối, nhà cũ dễ dột, nếu không có sát tinh, dù không có gia sản cũng tự mua được bất động sản.
Phúc Đức Cung: Cú đêm, tâm đầu cơ mạnh, lười biếng, bị động, không thích vận động mạnh, chú trọng chất lượng và thú vui cuộc sống.
Phụ Mẫu Cung: Đối cha mẹ hiếu nhưng không thuận, tuy tận hiếu, nhưng chỉ là ăn mặc.
Đồng, Âm chỉ có Tiệt Không, Địa Không, Địa Kiếp làm mất phúc phận.
THIÊN ĐỒNG + CỰ MÔN:
Đây là tổ hợp bất lợi nhất cho tình cảm trong Thiên Đồng, người Đồng, Cự muốn viên mãn tình cảm thật không dễ! Qua nhiều năm tư vấn, Đồng, Cự được xếp top 3 sát thủ cách, dù nam hay nữ. Hôn nhân không phải điểm đến duy nhất của nữ.
Tính cách Đồng, Cự rất cứng, tự phụ, chủ quan mạnh, đa nghi, dễ tự giới hạn, nhưng trí tuệ của họ không thể xem nhẹ, khẩu tài tốt, khả năng phê phán mạnh, lời nói sắc bén, một mũi trúng đích, thường khiến người nghe ngẩn ngơ, không biết đáp lại thế nào, với Đồng, Cự, đây là thắng mặt mũi thua lý lẽ.
Nữ Đồng, Cự rất lo gia đình, miệng dao lòng đậu, hơi cô độc, không thích giao thiệp, lời không hợp thì nửa câu cũng nhiều. Nam thiếu sức đột phá, không có tính khai sáng, nghiêng về hưởng thụ thành quả.
Đường tình khó khăn, hôn nhân nhiều trắc trở là số mệnh của Đồng, Cự sao? Chưa chắc! Nếu tổ hợp này hội Lộc Tồn, ngược lại thành cặp vợ chồng đồng cam cộng khổ, hôn nhân vẫn được chúc phúc. Nhưng điều kiện là Phu Thê Cung không được có “phân chuột”, nếu không hôn nhân ly, duyên vẫn phá.
Tóm lại, Đồng, Cự là tổ hợp tình cảm đầy sóng gió và trắc trở, một số nữ vì thế đi đến cực đoan, oán trời trách người, nặng hơn, vì cưỡng cầu một mối tình không được, thường vừa mất phu nhân vừa thiệt quân, vẫn không được vui lòng. Đồng, Cự có thể không bị tình thương và dứt khoát rút lui trong tình trường thật không nhiều, khó nhất là họ không cam tâm, chính sự không cam tâm khiến họ khổ.
Mệnh Cung: Nam tư duy nhạy bén, nội hướng, cẩn thận, làm việc bảo thủ cẩn thủ, tính thẳng thắn, miệng nhanh không tha người, tự cho là khẩu tài tốt, nhưng lý lẽ cưỡng ép cao, đa số nam Đồng, Cự khó có sự nghiệp lớn.
Nữ trông nội hướng tĩnh lặng, nhưng tư tưởng rất cởi mở, đa số nữ Đồng, Cự chiếm hữu mạnh, đa nghi, hay ghen. Nhưng khả năng công việc của họ không thể xem nhẹ, tính cách mạnh mẽ độc lập, trong tập thể sẽ thành người dẫn đầu ý kiến, khá hứng thú với nghệ thuật.
Nếu nữ Đồng, Cự có thể xem nhẹ tình cảm, không để mình sa vào tình khốn, tình thương, với trí tuệ, tương lai sự nghiệp có thể mở ra một mảnh trời.
Huynh Đệ Cung: Anh em có cảm giác xa cách, duyên mỏng, ý kiến khó thông, thường tranh cãi, tốt nhất không dính đến tiền, không nên cùng khởi nghiệp.
Phu Thê Cung: Dù nam hay nữ, hôn nhân không viên mãn! Tranh cãi, duyên yếu, ít gặp nhiều xa còn nhẹ, nếu có “phân chuột” nhập, hôn nhân không giữ được, khả năng tái hôn rất cao, nữ một hôn, tái hôn, ba hôn cũng không ít. Trừ phi Phu Thê Cung tam phương tứ chính hội Lộc Tồn, không có sát tinh xung, thì hôn nhân hòa hợp bền lâu.
Tử Tức Cung: Con cái phụ thuộc nặng, quan hệ cha con kém, dễ tranh cãi, lớn lên mỗi người tự lo, khiến cha mẹ mệt mỏi. Nếu không có sát tinh, con cái thông minh nhưng khó dạy, hay cãi lại.
Tài Bạch Cung: Thu nhập ổn định của người làm công, nhưng không giỏi quản lý tài chính, dễ tiêu xài quá mức. Nếu có sát tinh, tiền đến tiền đi nhanh, không nên đầu cơ hay cờ bạc.
Tật Ách Cung: Hệ hô hấp kém, phế quản, dị ứng, bệnh miệng răng, tim yếu, suy nhược thần kinh. Cần phòng sỏi thận, viêm bàng quang, trung niên chú ý tiểu đường.
Thiên Di Cung: Quan hệ nhân tế kém, khả năng thích nghi môi trường yếu, dễ gặp thị phi, khẩu thiệt, thường bị tiểu nhân quấy nhiễu. Ra ngoài hay gặp trở ngại, không thuận lợi.
Nô Bộc Cung: Không nên hợp tác, bạn bè vô ích, dễ liên lụy, cần cẩn thận chọn bạn. Thuộc hạ không đáng tin, dễ bị phản bội hoặc gây tổn thất.
Quan Lộc Cung: Thích hợp ngành dịch vụ, y dược, thiết kế, mỹ thuật, hoặc công việc sống bằng miệng. Nếu có Khôi, Việt đồng cung, phù hợp làm công chức. Một số người làm kinh doanh đầu cơ, nhưng cần cẩn thận.
Điền Trạch Cung: Nhà dễ có mối mọt, không nên dùng quá nhiều gỗ. Bất động sản không vượng, môi trường sống trung bình, dễ dời đổi nhà.
Phúc Đức Cung: Hay tranh luận, thích bát quái, đa nghi, tâm đầu cơ mạnh, thích dò la tin đồn. Càng già càng cô độc, tinh thần trống rỗng.
Phụ Mẫu Cung: Quan hệ cha con bất hòa, có khoảng cách, khó giao tiếp. Duyên cha mẹ mỏng, hay tranh cãi, thường bất đồng quan điểm.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột” (sát tinh như Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ), sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
THIÊN ĐỒNG + THIÊN LƯƠNG:
Đây là tổ hợp nhàn nhã, thích hợp với người yêu thích cuộc sống tự do, không thích ràng buộc. Người Đồng, Lương tọa mệnh thường có khí chất thanh cao, tư duy linh hoạt, nhưng thiếu tính kiên trì, dễ ba phút nhiệt huyết. Nếu không có cát tinh tương trợ, thành tựu sự nghiệp khó lớn, nhưng cuộc sống thường bình an, ít sóng gió lớn.
Mệnh Cung: Nam thông minh, hiền lành, thích giúp đỡ người, nhưng thiếu quyết đoán, dễ do dự. Có tài ăn nói, giỏi giao tiếp, nhưng hay nói lý lẽ lớn, thích ỷ già lên mặt. Tính tình ôn hòa, nhưng nội tâm cô độc, thích tự thưởng thức.
Nữ chu đáo, lo gia đình, dịu dàng, nhưng hay buồn không lý do. Tư duy tinh tế, giỏi quan sát, nhưng cảm xúc lên xuống, dễ lải nhải, chấp nhặt. Thích các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, có duyên với tôn giáo.
Huynh Đệ Cung: Tình anh em nhạt, không quá ba người, mỗi người tự lo. Nếu có cát tinh, anh em hòa thuận, nhưng ít giúp đỡ lẫn nhau.
Phu Thê Cung: Hôn nhân muộn tốt hơn, dễ gặp người lớn tuổi hoặc trông già dặn. Vợ chồng hay cãi vã nhỏ, nhưng tình cảm ổn định nếu không có sát tinh. Nữ mệnh nên lấy chồng lớn tuổi, nam mệnh lấy vợ trẻ tốt hơn.
Tử Tức Cung: Con cái thông minh, nhưng nghịch ngợm, khó dạy. Quan hệ cha con tốt, nhưng con cái phụ thuộc nặng, lớn lên tự lập.
Tài Bạch Cung: Thu nhập ổn định, nhưng không giỏi quản lý tài chính. Không nên đầu cơ, cờ bạc, nếu không tiền đến tiền đi nhanh. Tiền tài bình thuận nếu biết tiết chế.
Tật Ách Cung: Gan, mật kém, nhịp tim không đều, dạ dày yếu, dễ tiêu chảy. Nữ cần phòng bệnh phụ khoa, nam dễ suy thận. Nếu có sát tinh, chú ý xơ gan.
Thiên Di Cung: Thích ra ngoài, nhân duyên tốt, có duyên với trưởng bối. Thích hợp di cư hoặc làm việc xa quê, ở nhà không yên.
Nô Bộc Cung: Bạn bè đắc lực nếu không có sát tinh. Được người lớn tuổi trợ giúp, nhưng cần chọn bạn cẩn thận, tránh liên lụy.
Quan Lộc Cung: Thích hợp công chức, dịch vụ, y dược, hoặc công việc sống bằng miệng. Nếu có Khôi, Việt, sự nghiệp ổn định, có thể làm trong doanh nghiệp lớn.
Điền Trạch Cung: Nhà gần bệnh viện, đoàn thể từ thiện, hoặc khu vực cây cối, nông sản. Nếu không có sát tinh, bất động sản ổn định, có thể được trưởng bối giúp.
Phúc Đức Cung: Mệnh lao lực, ý thức lo âu nặng, không buông được việc. Càng già càng cô đơn, thích làm công ích hoặc gửi gắm tâm hồn vào tôn giáo.
Phụ Mẫu Cung: Được cha mẹ che chở, có thể thừa hưởng gia sản. Cha mẹ trường thọ, có tư tưởng tôn giáo, nhưng duyên với cha yếu hơn.
Trên đây là cách luận khi trong cung không có sát tinh. Nếu có “phân chuột”, sẽ phá hoại luận điểm vốn có của cung.
* Tiểu trạm quân nhắc nhở: “Phân chuột” nghĩa là sát tinh, như Địa Không, Địa Kiếp, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Hóa Kỵ. Các sát tinh này khi nhập cung sẽ làm suy yếu hoặc phá hoại đặc tính tốt của cung, cần xem xét kỹ toàn bộ lá số để luận giải chính xác.
Nguồn: Blog 360Doc