Ý NGHĨA VÒNG THÁI TUẾ
VÒNG THÁI TUẾ THEO CÁCH NHÌN CỦA CỤ THIÊN LƯƠNG
Trong Tử Vi có ba vòng quan trọng cần để ý là vòng Thái Tuế (an theo Chi năm sinh, Ðịa Chi), vòng Lộc Tồn (an theo Can năm sinh, Thiên Can) và vòng Tràng Sinh (an theo Cục, nghĩa là nạp âm của cung an Mệnh).
VÒNG THÁI TUẾ:
Ðây là vòng tư cách hạnh kiểm của từng cá nhân
Vòng Thái Tuế gồm 12 sao là Thái Tuế, Thiếu Dương, Tang Môn, Thiếu Âm, Quan Phù, Tử Phù, Tuế Phá, Long Ðức, Bạch Hổ, Phúc Ðức, Ðiếu Khách, Trực Phù.
Vòng Thái Tuế được chia thành 4 nhóm tam hợp:
* Thái Tuế - Quan Phù - Bạch Hổ
* Thiếu Dương - Tử Phù - Phúc Ðức
* Tang Môn - Tuế Phá - Ðiếu Khách
* Thiếu Âm - Long Ðức - Trực Phù
* Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Thái Tuế:
Người có cung Mệnh hay Thân tại đúng cung tuổi hay trong tam hợp cung tuổi trên Địa Bàn Tử Vi là được hưởng Thái Tuế, một ngôi vị thịnh vượng chính đáng cho người thọ hưởng được thỏa mãn hài lòng với vị trí của chính mình.
Tuế Phù Hổ là người đáng trọng vì có tư cách nhân phẩm, không thể có đầu óc làm quấy, là người thành tâm thiện ý gánh vác trách nhiệm những công việc có tính cách lợi ích, chính nghĩa, không vị kỷ để rồi thành công đồng hưởng. Ðây là người nghĩ đến phận sự của mình như có trách nhiệm phải làm, một khi làm thì phải làm sao cho xứng đáng với tư cách nhân phẩm, đâu cần phải có Khoa Quyền Lộc, nếu có chỉ là gấm thêu hoa. Ðây là hạng người đáng trọng, là người tối thiểu có tư cách, từ người làm mướn cho đến tột đỉnh cao sang tùy theo địa vị thứ lớp người đó đứng trong xã hội. Số nào Mệnh Thân đồng cung tam hợp Thái Tuế nếu có thêm Ðẩu Quân thì dầu ở trong hoàn cảnh nào cũng không phải là thường nhân ti tiện, ít ra cũng đủ bổn phận, có danh gì với núi sông.
Thái Tuế: rất tự hào, tự coi mình như có trách nhiệm làm việc chính đáng. Không thể là người bất nhân nếu có Thái Tuế thủ Mệnh. Mệnh Thái Tuế gặp Thiên Khốc đóng (tuổi Dậu) cũng đưa thân thế lên hàng danh dự, chính nghĩa vang dội.
Quan Phù: hành động chính đáng với sự suy tính kỹ càng, thận trọng trước khi hành động, là người sinh ra đã có một trách vụ gì đó với xã hội.
Bạch Hổ: cương quyết, đầy tham vọng, cố gắng, hâm hở làm việc chính đáng, khi làm việc chính nghĩa thì ham mê làm với bất cứ giá nào, dù rằng có ý nghĩa vị tha nhưng cũng không ngoài thỏa mãn dục vọng. Người Bạch Hổ mang danh nghĩa khí nhưng còn để ý đến Quyền Lộc riêng tư. Nếu Bạch Hổ gặp Ðường Phù thì không nên quá tự hào coi hưởng thụ Lộc Tồn như thù lao xứng đáng với công khó nhọc mà mình đã xây đắp cho xã hội, tuy là người được ghi danh hậu thế nhưng nội tâm vẫn chưa cho phép mãn nguyện.
Ba vị trí này luôn luôn được hưởng bộ Tứ Linh Long, Phượng, Hổ, Cái đem lại sự vinh dự, may mắn, hưng vượng, thỏa mãn và đắc ý (bằng cách này hay cách khác) cho người được hưởng. Tuy nhiên vì vòng Thái Tuế xuất phát từ Địa Chi (ngọn) nên chỉ là mong manh và là giai đoạn mà thôi, nên cần phải phối hợp thêm:
Thái Tuế + Tràng Sinh: tam hợp Sinh Vượng Mộ (Cục tuổi) tăng thêm sức mạnh cho tam hợp Thái Tuế; nên người được hưởng Thái Tuế mà có thêm tam hợp Tràng Sinh thì sẽ hơn hẳn những người không được Sinh Mộ Vượng tam hợp.
Thái Tuế + Quốc Ấn: được vòng Lộc Tồn (Thiên Can) tam hợp nên được hưởng Thái Tuế một cách chính đáng và bền bĩ; dành cho những tuổi được hưởng Lộc Tồn chính đáng.
Thái Tuế + Ðường Phù: chỉ sự phiếm hư không bền vững, thường xuyên có mặt Kình hoặc Ðà và Song Hao ở cảnh nghịch địa Âm Dương của Lộc Tồn; nên sự thụ hưởng Thái Tuế bị hạn chế, chỉ còn là những cơn mưa mát mát (danh dự) tạm bợ mà thôi, chứ không thể làm cho đất (Ðịa Chi) nẩy mầm xanh lâu dài được.
Thái Tuế + Không Kiếp: sinh bất phùng thời, có tài nhưng không được trọng dụng; nếu là tam hợp Thiếu Âm thì hay bị người qua mặt, lợi dụng mà phải chịu thiệt.
Thái Tuế + Tả Hữu: nhân phẩm, có tư cách vạn năng.
Mệnh Thái Tuế, Thân Tuế Phá: cuộc đời không thiếu sót bổn phận, nhưng vãn niên thấy như bị ép buộc, phần hành động (Thân) như bị bắt buộc không được làm theo như ý mình vì một lẽ gì đó, mà còn bị bạc đãi là đằng khác, đành cam chịu nhận sự bạc bẽo, không đổ trách nhiệm cho người khác, không thể thổ lộ cùng ai. Vì là mệnh Thái Tuế nên không thể là người miệng nói nhân nghĩa mà làm việc ma giáo.
Mệnh Tuế Phá, Thân Thái Tuế: sinh thời gặp nhiều khó khăn và bất mãn, gặp bước lưu ly nhưng vẫn giữ được tấc dạ sắt son không thể sống ùa theo vô nghĩa, tự mình vạch lấy con đường lý tưởng để đi.
Thân Mệnh đồng cung có Thái Tuế: người nhân hậu ngay trong huyết quản, gặp Thiên Tài thì sẽ được Thiên Tài cất dọn tất cả những gì trở ngại cho Mệnh.
* Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Dương Tử Phúc:
Dương Tử Phúc: là người thông minh nhạy cảm hơn đời, nhưng đừng tự hào ham mê tục lụy bởi vì đời chỉ là số không trống rỗng, nên trọng đức vì chữ đức bằng ba chữ tài. Người này đứng ở vị trí ngã ba đường, nếu biết đi thì gặp Tứ Ðức, nếu làm quấy thì gặp Thiên Không. Khoa Quyền Lộc đối với hạng nầy thì như bùa mê thuốc lú, làm cho người say đắm bả vinh hoa, lầm lạc vì mùi phú quý, nếu vung tay quá trớn thì một khi hối cãi thì mọi việc đã rồi. Thiên Không có một vị trí nhất định nằm sau Thái Tuế, giữ trách nhiệm canh phòng không cho ai hưởng đặc y trên mức tối đa Thái Tuế, nếu không lấy Ðức (Thiên Không luôn luôn có Tứ đức tam hợp xung chiếu) làm khuôn vàng thước ngọc thì chỉ là một số Không to lớn. Thiên Không luôn luôn có Ðào Hồng.
Khi gặp Ðào Hoa ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu (tuổi Dần, Thân, Tỵ, Hợi) thì là người vì lòng tự hào có phần cao nên Thiên Không hãm hạng người này vào vòng di lụy khi tham vọng quá mức (Ðào Hoa, Thiên Không), Ðào Hoa lắm tham vọng sinh ra lắm mưu, nhiều mẹo quỷ quyệt thì rồi kết quả cũng là nước lã ra sông.
Thiên Không gặp Hồng Loan tại Dần, Thân, Tỵ, Hợi (tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) thì lại đầy ý nghĩa vị tha, là người biết hiểu thân phận chân yếu tay mềm, dễ khiến nhạy cảm yếm thế (Thiên Không Hồng Loan).
Thiên Không tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi (tuổi Tý, Ngọ, Mão, Dậu) thì có chân tướng cay nghiệt, vì tuổi Tứ Chính là người khẳng khái nhiều khi quá cứng rắn nên kết quả thường đem lại có phần ác liệt.
Thiếu Dương: thông minh, nhạy cảm và sáng suốt, khôn ngoan.
Tử Phù: muốn hơn người, nhưng thường bị kẹt.
Phúc Ðức: muốn được hơn người thì phải có đức độ.
Người mà có cung Mệnh hay Thân đóng tại vị trí tuổi được sinh nhập (tức tam hợp cung tuổi sinh nhập cho tam hợp cung Mệnh hay Thân) nên được tinh khôn hơn người, phải biết rằng chữ "Ðức" (Thiên Nguyệt Ðức) đáng trọng bằng ba chữ Tài ; bằng không thì Thiên Không sẽ ra tay để thi hành sứ mạng, rồi ra mọi sự cũng thành không. Thiên Không nay chính là giấc mộng hoàng lương cho những ai biết ngộ được chữ "không" của đời mình thì sẽ tránh được mọi phiền não do Thiên Không (vì ở vào hoàn cảnh nghịch lý Âm Dương nên luôn luôn có mặt gây ra.
* Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Tuế Phá:
Tang Tuế Ðiếu: là người sống trong hoàn cảnh bất mãn, luân phiên bất đắc ý, nên thường có Thiên Mã, nhưng có được hưởng Thiên Mã hay không lại là khác. Vì thường thấy thất vọng triền miên nên hạng người Tang Tuế Phá dễ làm việc thất nhân tâm. Thiên Mã đem lại nghị lực, khả năng giúp đời. Mã ở Dần gặp Mệnh Mộc, ở Tỵ gặp Mệnh Hỏa, ở Thân gặp Mệnh Kim, ở Hợi gặp Mệnh Thủy là gặp đúng chủ nhân. Thiên Mã đối với hạng người nầy có giúp đỡ cho đương số được tới mức độ nào hay không thì phải đem hành bản Mệnh số sánh với hành nơi Mã đóng. Khoa Quyền Lộc đối với hạng này thì như bùa mê thuốc lú, làm cho người say đắm bả vinh hoa, lầm lạc vì mùi phú quý, nếu vung tay quá trớn thì một khi hối cải thì mọi việc đã rồi.
Tang Môn: bất mãn, lòng thường bâng khuâng, khóc lóc bi thương, nặng lo và tính toán. Nếu gặp được Khoa thêm Tả Hữu thì trở thành đáng kính vì tính nhân hậu, đặc biệt khả năng uyên bác, nếu được Thiên Mã đồng tình phò trợ thì cũng hữu công vô lao, may mắn thì được danh thơm hậu thế.
Tuế Phá: bất mãn, hận lòng, muốn đả phá quật ngược. Người Tuế Phá bị hoàn cảnh làm cho vụng suy thất ý, nếu không giữ được chính tâm và Khoa Quyền Lộc quyến rũ thì rất dễ làm những điều bạo nghịch để vinh thân rồi lưu xứ vạn niên.
Ðiếu Khách: bất mãn, thường hay lấy lời lẽ thuyết phục phân trần cho hoàn cảnh hiện tại, nhưng cũng không đem lại gì hơn.
Người có cung Mệnh hay Thân đóng tại vị trí tuy cùng phe phái Âm Dương nhưng xung khắc đối nghịch với tuổi (tức tam hợp cung tuổi khắc xuất hoặc khắc nhập tam hợp cung Mệnh hay Thân) nên thường trong tình trạng bất mãn và chống đối; được Thiên Mã là nghị lực, tài năng mẫn cán có mặt để phụ giúp cho Mệnh số trong những hoàn cảnh trái ngang nầy (mức độ phụ giúp và thành bại còn tùy vào Thiên Mã này có phải là của mình hay không).
Tuế Phá + Không Kiếp + Tả Hữu: cũng như với tam hợp Thiên Không, là người có nhiều thủ đoạn hơn người, thị kỷ phi nhân, là người không thể đặt niềm tin vào, một khi họ chủ trương một công việc gì có thể coi là công việc vị tha thì thật ra cũng chỉ nghĩ đến bản thân mình là chính, còn thừa thãi mới là lợi chung. Người này dù có được Chính thiện tinh thủ mệnh thì cũng chẳng qua chỉ là những sự đạo đức giả bên ngoài. Hạng người này bị hoàn cảnh làm cho vụng suy thất ý, nếu không giữ được chính tâm thì rất dễ làm những việc bạo nghịch để rồi phải bị mang tiếng ô danh.
Tuế Phá + Ðẩu Quân: là một phường Từ Hải Hoàng Sào, nếu Mệnh Thân đồng cung thì nghênh ngang một cõi biên thùy khó ai rung chuyển nổi, với bất cứ giá nào đạt được ý chí bất khuất nhưng thật ra thân tâm mang hận đến tuyền đài khôn nguôi.
* Cung Mệnh Thân nằm trong tam hợp Thiếu Âm:
Âm Long Trực: là người đáng mến do có thiện chí làm việc nhưng luôn luôn bị đời bạc đãi, dù có Khoa Quyền Lộc thì chỉ càng thêm đau đớn. Ðây là hạng người đáng mến. Tuy bị đời bạc đãi nhưng tỉnh ngộ ra vẫn thấy tốt đẹp vì có Hồng Loan tô điểm hay được đền bù bằng Lộc Tồn nhỏ giọt
Thiếu Âm: dễ lầm lẫn, tin người nên hay bị lợi dụng; làm cho người khác hưởng, quá tin tưởng người lại vụng tính.
Long Ðức: an ủi vì thua thiệt mà tự kiềm chế, biết bon chen cũng không đi đến đâu.
Trực Phù: chịu nhiều thiệt thòi, công lao không được hưởng xứng đáng.
Người có cung Mệnh hay Thân đóng tại vị trí tuổi bị sinh xuất (tức tam hợp cung tuổi sinh xuất cho tam hợp cung Mệnh hay Thân) là nghịch lý Âm Dương nên bị thua thiệt, có nhiều thiện chí nhưng tiếc rằng phận hẩm duyên hiu, luôn luôn bị đời bạc đãi; thường được an ủi bằng Lộc Tồn (trong nghịch cảnh) tưởng cũng không tốt đẹp gì, vì thường có Lưu Hà và Kiếp Sát canh giữ; nếu biết thì nên chọn con đường chánh là Long Ðức mà đi. Ðược Thiên Hỷ (tuổi Dương) và Hồng Loan (tuổi Âm) an ủi, dù trong hoàn cảnh nào cũng nên giữ lấy sự vui vẻ, hoà nhã và kiên nhẫn rồi ra sẽ có ngày được bù đắp và dự phần sáng tỏ với người.
* Chú ý theo Thiên Lương, cần xét thêm:
Hoá Khoa: ảnh hưởng lên nhân cách, có tác dụng cải hoán tư cách. Người có Hoa Khoa là người tính tình nhân hậu, có khả năng, có danh giá, do khổ công luyện tập mà có nên tài năng nầy đáng quý trọng, huống chi còn tiềm tàng sâu rộng đức cứu khổ trợ nguy. Ví dụ Hoá Khoa gặp bộ Sát Phá Tham nói chung, hãm địa nói riêng, thì có tác dụng cải đổi tư cách, là trường hợp hung tinh ngộ chế, khiến trở thành những hiền nhân treo cao phẩm giá. Hoá Khoa dù với Nhật Nguyệt Ðồng Lương thì nêu danh thành tích đặc hạng của một chuyên khoa, chỉ rõ một thượng thặng siêu ngành riêng biệt.
Tuần, Triệt: Người không có Tuế Phù Hổ thủ Mệnh Thân mà có Tuần Triệt án ngữ tại Mệnh Thân thì là người như những con thiêu thân, chẳng may bị đặt vào vị trí không cho phép hài lòng, gặp Tuần Triệt thì tự hồi chính, trở nên những thành phần lương đống, hữu ích cho xã hội, nặng tư cách phơi bày hạnh kiểm cá nhân lên hàng danh dự, không thua gì người có tam hợp Thái Tuế. Thêm vài ví dụ như Sát Phá Tham gặp Tuần Triệt thì cũng mất tính cách hung hãn, gặp Triệt thì không còn gì hung hãn, gặp Tuần thì giảm tốc lực của bộ máy tinh vi thực hành đắc dụng.
Thiên Tài: biến đổi tính cách chậm chạp, từ từ biến đổi.
Theo: Tử Vi - Trừ Mê Tín
Phản hồi từ học viên
5
(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)
Bài viết liên quan
Giáo Sư Nguyễn Văn Bông Thực Là Một Nhân Tài Đáng Tiếc
Lá Số & Cuộc Đời Của Nữ Nghệ Sĩ Bích Huyền
Hai Vị Chúa Tể Đáng Sợ Trên Lá Số: Tuần & Triệt
Những Câu Phú Tử Vi Ứng Nghiệm Thế Nào? Đẩu Quân Ở Tử Tức; Nhật Nguyệt Đồng Minh Sửu Mùi...
Thuyết Nhân Quả Căn Bản Giải Thích Tử Vi
Ý Nghĩa Đặc Biệt Của Vòng Tràng Sinh Trong Lý Học Đông Phương