By Tử Vi Chân Cơ| 16:03 26/04/2024|
Tứ Hóa Bắc Phái

LUẬN ĐOÁN HÔN NHÂN TÌNH CẢM

Phi cung hóa tượng của cung phu thê:

Nguyên tắc luận đoán hôn nhân tình cảm, thông thường lấy cung phu thê làm chủ, nhưng cung phu thê có ba loại: nguyên cục, đại vận, lưu niên, lấy loại nào làm chuẩn?

(1) Cung phu thê của nguyên cục, cung phu thê của đại vận, cung phu thê của lưu niên, một là thiên bàn, hai là địa bàn, ba là nhân bàn. Đây là “thiên địa nhân”. Thiên bàn thuộc tượng không gian; địa bàn thuộc tượng thời gian; nhân bàn thuộc tượng ứng số. Trong Bắc phái Tử Vi Đẩu Số nói chung, trong Khâm Thiên môn nói riêng, đều theo nguyên tắc thiên nhân hợp nhất, dùng địa làm trung gian; tức đại vận phải quy về nguyên cục để lấy tượng, mà ứng số ở lưu niên, lưu niên phải quy về nguyên cục nhưng lấy đại vận để phân biệt; cũng vậy, lưu nguyệt phải quy về đại vận, nhưng lấy lưu niên để phân biệt; như vậy mới có thể nói “có tượng ắt phải có vật”, mà không rơi vào chỗ mơ hồ.

(2) Mỗi một cung đều phân ba cấp, một cấp quản một cấp, đây là thứ tự lớn nhỏ. Tứ hóa của nguyên cục quy về mệnh bàn nguyên cục, là tượng thuộc cách cục; lúc tứ hóa của nguyên cục gặp tứ hóa của hành hạn đại vận hoặc lưu niên mới ứng cát hung; lúc tứ hóa của đại vận gặp tứ hóa của hành hạn lưu niên hoặc lưu nguyệt mới ứng cát hung; lúc tứ hóa của lưu niên gặp tứ hóa của hành hạn lưu nguyệt hoặc lưu nhật mới ứng cát hung. Rồi xem bạn hỏi góc độ nào? Hỏi về cách cục của người phối ngẫu? Hỏi về tình cảm vợ chồng trong đại vận này? Hỏi về tình cảm vợ chồng trong lưu niên này? Lúc đó mới có căn cứ để chọn cấp nào làm chuẩn.

Theo Khâm Thiên môn, “cách” chỉ là “tượng”, không có cát hung, có tượng rồi ắt sẽ có sự vật của nó, cát hung họa phúc phải đợi đến hành hạn mới hiển hiện.

Phi cung hóa tượng ở cung phu thê sẽ vì mệnh bàn khác nhau mà dẫn phát hiện tượng cũng khác nhau, mà cung phu thê phi hóa nhập các cung khác, và cung mệnh phi hóa nhập các cung khác, đều thuộc tứ hóa hậu thiên. Cung phu thê phi hóa nhập các cung khác, ngoại trừ dùng để giải thích về người phối ngẫu, chúng còn hiển thị mối quan hệ đối đãi giữa người phối ngẫu với mệnh tạo.

Bất kể nam hay nữ, ai cũng muốn có một tình duyên hôn nhân tốt đẹp, nhưng cũng có người bất mãn cuộc sống hôn nhân của mình, thậm chí về sau phải li hôn để giải quyết vấn đề, những trường hợp này thường khiến cho người ta cảm thấy nếu biết sớm như vậy, thì ban đầu cần gì phải... than thở! Đời người vốn yêu nhau thì dễ, sống với nhau mới khó. Cho nên nghiên cứu mệnh lí, chính là hi vọng biết được tình duyên hôn nhân của mình có “định số” như thế nào? Nắm được điềm tượng, rồi theo những điều kiện trong điềm tượng mà cải thiện tình trạng tốt xấu của tình duyên, làm cho cuộc hôn nhân đi theo hướng tốt, đạt đến mục đích cùng tôn trọng lẫn nhau, sống với nhau đến bạc đầu.

Khuyến Học Trai Chủ, một cao thủ Bắc phái Tử Vi Đẩu Số, có viết một đoạn văn liên quan đến “tình duyên hôn nhân tốt hay xấu” rất có giá trị tham khảo. Xin trích lục như sau:

- Cung phu thê thích có chính diệu, không thích cung vô chính diệu.

- Cung phu thê thích sao tĩnh, không thích sao động và sao chủ về tư tưởng, cũng không thích Vũ Khúc là sao hóa quả tú.

- Cung phu thê không thích tuyến “phu quan” có quá nhiều tứ hóa [năm sinh], tự hóa và phi hóa, có nhiều thì dễ có biến động thay đổi.

- Cung phu thê, cung quan lộc, cung phúc đức có Hóa Kị [năm sinh], hôn nhân dễ có vấn đề. Hôn nhân có vấn đề không ngoài hai loại: một là kết hôn sớm rồi li hôn sớm, hoặc kết hôn sớm rồi li hôn muộn, hai là không kết hôn họặc kết hôn muộn.

- Cung phu thê, cung quan lộc có Thái Âm hoặc Thái Dương tọa thủ, không thích cung mệnh là can Giáp hay can Ất.

- Cung mệnh của đại vận, cung phu thê của đại vận không thích có can Giáp và can Ất, mà thích có can Đinh hoặc can Canh, nhưng vẫn có chỗ không được hay.

- Thích cung phu thê phi Hóa Lộc nhập “ngã cung” và cung tật ách, không thích cung phu thê phi Hóa Kị xung cung mệnh hay cung tật ách.

- Cung mệnh của đại vận phi Hóa Kị xung cung phu thê của nguyên cục hay cung phu thê của đại vận, cung phu thê của đại vận phi Hóa Kị xung cung mệnh của nguyên cục hay cung mệnh của đại vận, là ý tượng: có mất mát trong tình duyên hôn nhân.

- Cung mệnh của nguyên cục có Thái Dương tọa thủ, không ưa cung phu thê có can Giáp; cung mệnh của nguyên cục có Thái Âm tọa thủ, thì không thích cung phu thê có can Ất.

- Người sinh năm Mậu Quý, can của các cung Tí, Sửu, Dần, Mão chia ra là Giáp, Ất, Giáp, Ất, cung mệnh của đại vận hoặc cung phu thê của đại vận mà đến các cung vị này, là ý tượng: không thường gặp mặt nhau lại tốt hơn. Đương nhiên, cung phu thê cũng không thích “Sách Mã Kị" 拆馬忌.

- Cung phu thê phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, hay Hóa Khoa đến cung mệnh, cung tài bạch, cung quan lộc hay cung tật ách, còn phi Hóa Kị đến cung điền trạch, mẫu người phối ngẫu này thật sự khó gặp.

Ví dụ khác về phi cung hóa tượng của cung phu thê:

Hình 1

Cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung thiên di, phi Hóa Kị nhập cung tài bạch và xung cung phúc đức, cung thiên di là cung vị tài bạch của cung phu thê, tức Lộc nhập tam phương của cung phu thê, còn chiếu cung vị phúc đức của cung phu thê. Cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung tài bạch, tức Kị nhập cung vị phu thê của cung phu thê, là ý tượng: người phối ngẫu ỷ lại vào mệnh tạo, muốn dựa vào sự thành tựu của mệnh tạo, cho nên người có hóa tượng này đều có hiện tượng kết hôn sớm. (Xem hình 1)

Cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức, phi Hóa Kị nhập cung tài bạch và xung cung phúc đức, cung phúc đức là cung vị phúc khí của mệnh tạo, cũng là cung vị tạo hóa của mệnh tạo. Cung tài bạch là cung vị phu thê của cung phu thê, tức cũng chủ về mênh tạo. Cho nên người phối ngẫu có Lộc Kị nhập tuyến “tài phúc” là “chiến khắc”, là ý tượng: người phối ngẫu mạng cứng cỏi sẽ khắc mệnh tạo. Nếu cung phu thê phi Hóa Lộc và Hóa Kị song song nhập cung tài bạch hoặc cung phúc đức, vì Hóa Lộc và Hóa Kị đồng thời phi nhập cùng một cung, tức tạo thành hiện tượng “Song Kị”, cũng là tượng chủ về người phối ngẫu mạng cứng cỏi sẽ khắc mệnh tạo. (Xem hình 2)

Hình 2

Cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, cung tài bạch cũng phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, biến cung tài bạch và cung phúc đức thành tuyến đối cung, là tượng “nhờ người phối ngẫu mà đắc tài lộc”. Hiện tượng Hóa Kị này được xem là cùng trợ giúp, thuộc về cát tượng; nên chú ý, lúc hai cung phát xạ hai cung khác nhau, thì có ý nghĩa là: “vì cung này... mà cung kia bị...“ tức vì cung bên phải như vậy, nên cung bên trái như vậy, đây là do cung bên phải khởi động hóa tượng. (Xem hình 3)

Hình 3

Thông thường bất luận cung nào có tự hóa đều chủ về tổn thất, chỉ là mức độ và trạng thái tâm lí khác nhau mà thôi. Thông thường, tự Hóa Lộc là mất đi, đều do bản thân cam tâm tình nguyện, không oán trách; tự Hóa Quyền là tranh đến cùng mà vẫn bị mất, uổng phí tâm cơ; tự Hóa Khoa là theo cái khác mà đi, là thấy phá rồi thấy tình hình mở ra; tự Hóa Kị là sau khi tổn thất còn gặp phiền phức.

Ý tượng của cung phu thê tự hóa:

- Cung phu thê tự Hóa Lộc:

Cung phu thê tự Hóa Lộc, là Lộc xuất, tuy duyên với người khác giới rất sâu, nhưng tình duyên hôn nhân lại bạc, dù kết hôn cũng rất dễ li hôn. Nhìn từ góc độ khác, sau khi kết hôn, người phối ngẫu sẽ trợ giúp mệnh tạo trong sự nghiệp kinh doanh (trợ giúp về sự nghiệp chẳng liên quan gì đến việc li hôn hay không). Cung phu thê là cung vị thiên di của cung quan lộc, lúc tự Hóa Lộc sẽ chủ về xuất ngoại, sáng lập cơ nghiệp hoặc công việc đều thuận lợi; nhưng là cát hay hung, vẫn cần phải xem kèm cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung nào.

- Cung phu thê tự Hóa Quyền:

Cung phu thê tự Hóa Quyền, tự hóa tức là “bản dịch”, là ý tưọng: người phối ngẫu sẽ tránh quyền, cho nên vợ chồng nhiều tranh chấp. Giả thiết cung phu thê của nguyên cục có sao Hóa Khoa [năm sinh] tọa thủ, vốn chủ về người phối ngẫu có phong độ tốt, là quý nhân của mệnh tạo, nhưng nêu cung phu thê lại có tự Hóa Quyền, là ý tượng: người phối ngẫu tuy đối xử tốt, nhưng lại muốn quản thúc mệnh tạo. Nếu cung phu thê của nguyên cục có sao Hóa Kị [năm sinh] tọa thủ, mà còn tự Hóa Quyền, thì giữa vợ chồng sẽ tranh chấp không ngừng, giải thích không được, dùng lí lẽ cũng không xong, mức độ có nghiêm trọng hay không, phải xem sao nào Hóa Kị và sao nào Hóa Quyền để định.

- Cung phu thê tự Hóa Khoa:

Cung phu thê tự Hóa Khoa, là ý tượng: vợ chồng hạnh phúc, đối xử với nhau hòa hợp, “tương kính như tân”, cũng chủ về người phối ngẫu gia thế thanh bạch, bản thân quý hiển và có danh tiếng. Vì tuyến “phu quan” là tuyến chủ về danh lợi, cung quan lộc là lợi ích thực chất, cung phu thê là tiếng tăm sự nghiệp ở bên ngoài, danh tiếng chỉ là giả tượng mà thôi. Cung phu thê và cung quan lộc có quan hệ mật thiết với nhau, nếu lấy tình cảm vợ chồng mà nói là một chuyện, còn nếu lấy sự nghiệp để nói thì cũng là vấn đề đối đãi giữa vợ chồng. Cung phu thê tự Hóa Khoa, là ý tượng: bất luận làm gì cũng bình ổn mà thôi, nhưng nếu cung phu thê tự Hóa Quyền, thì người phối ngẫu được một tấc sẽ lấn một thước.

- Cung phu thê tự Hóa Kị:

Cung phu thê tự Hóa Kị, là ý tượng: giữa vợ chồng hay cãi cọ, nhiều nghi kị, không quan tâm lẫn nhau, vợ chồng gần nhau ít mà xa nhau nhiều. Còn do nguyên nhân gì, thì phải xem cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung nào, để biết nguyên nhân tại sao gần nhau ít mà xa nhau nhiều.

Cung phu thê có tứ hóa [năm sinh] lại tự hóa:

(1) Cung phu thê vốn đã có Hóa Lộc [năm sinh], mà còn tự hóa:

- Nếu lại tự Hóa Lộc, là ý tượng: mệnh tạo đối xử tốt với người phối ngẫu, nhưng người phối ngẫu cho đó là chuyện phải như vậy, không cảm ơn mà cũng không trân quý.

- Nếu lại tự Hóa Quyền, là ý tượng: mệnh tạo đối xử tốt với người phối ngẫu, người phối ngẫu cũng đối xử tốt với mệnh tạo, còn rất giỏi giang, trợ giúp mệnh tạo về sự nghiệp.

- Nếu lại tự Hóa Khoa, là ý tượng: mệnh tạo đối xử tốt với người phối ngẫu, còn người phối ngẫu có gia thế và sự tu dưỡng cũng không tệ, rất quan tâm mệnh tạo, có thể cùng chia sẻ cay đắng ngot bùi.

- Nếu lại tự Hóa Kị, là ý tượng: mệnh tạo vẫn đối xử tốt với người phối ngẫu như lâu nay, nhưng người phối ngẫu lại không thấy mệnh tạo đối xử tốt với mình. Vì Lộc Kị tương xung, nên mệnh tạo cần hạn chế tối đa việc qua lại với bạn khác giới, người phối ngẫu rất ghen.

(2) Cung phu thê vốn đã có Hóa Quyền [năm sinh], mà còn tự hóa:

- Nếu lại tự Hóa Lộc, là bản thân mệnh tạo có đủ năng lực, còn được người phối ngẫu trợ giúp, khiến cơ hội thăng tiến, thành công càng lớn, tuy giữa hai người cũng có xảy ra chuyện tranh cãi, nhưng không ảnh hưởng đến tình cảm của hai người.

- Nếu lại tự Hóa Quyền, là ý tượng: mệnh tạo muốn quản thúc người phối ngẫu, mà người phối ngẫu cũng muốn quản thúc mệnh tạo; mệnh tạo có năng lực, người phối ngẫu cũng giỏi giang, mệnh tạo có cá tính mạnh, cá tính của người phối ngẫu cũng mạnh không kém; có thể nói là kẻ tám lạng người nửa cân.

- Nếu lại tự Hóa Khoa, là lúc mệnh tạo nổi giận thì nguời phối ngẫu nhường, không để bụng, không tính toán so bì. Do có sao Khoa tự hóa, nên có ý tượng: người phối ngẫu có công phu tu dưỡng tốt.

- Nếu lại tự Hóa Kị, là mệnh tạo muốn quản thúc người phối ngẫu, lúc người phối ngẫu nổi giận, cãi vã, sẽ không nhượng bộ, hay nể mặt mệnh tạo, tình hình này nếu kéo dài thì đúng là cuộc đời gặp "oan gia".

(3) Cung phu thê vốn đã có Hóa Khoa [năm sinh], mà còn tự hóa:

- Nếu lại tự Hóa Lộc, là ý tượng: vợ chồng có thể sống với nhau đến bạc đầu, ân ái hết kiếp người.

- Nếu lại tự Hóa Quyền, là ý tượng: mệnh tạo đối xử rất dịu dàng, quan tâm chăm sóc, nhưng người phối ngẫu không những không biết trân quý, mà còn trói buộc mệnh tạo, chẳng lo gì cho mệnh tạo.

- Nếu lại tự Hóa Khoa, là ý tượng: người phối ngẫu không biết trân quý tình cảm, trơ trơ ra, không phân biệt tốt hay xấu, không xem trọng mệnh tạo, mệnh tạo đối xử tốt với người phối ngẫu, nhưng chàng (nàng) lại cho là phải như vậy.

- Nếu lại tự Hóa Kị, là ý tượng: người phối ngẫu thường hay nổi giận với mệnh tạo, mệnh tạo đối xử tốt với người phối ngẫu, nhưng chàng (nàng) chẳng động tịnh gì, còn tranh cãi không ngừng.

(4) Cung phu thê vốn đã có Hóa Kị [năm sinh], mà còn tự hóa:

- Nếu lại tự Hóa Lộc, tình hình này là mệnh tạo đối xử không tốt với người phối ngẫu, thường kiếm cớ gây sự, mà chàng (nàng) chẳng những không giận, mà còn đối xử tốt vói mệnh tạo, khiến mệnh tạo cảm thấy có lỗi với họ.

- Nếu lại tự Hóa Quyền, là ý tượng: mệnh tạo làm mặt lạnh với người phối ngẫu, nhưng vợ (hay chồng) lại muốn quản thúc mệnh tạo, do đó không nhường nhịn nhau, cãi vã không ngừng, thậm chí động tay động chân.

- Nếu lại tự Hóa Khoa, vì sức mạnh của Khoa không bằng sức mạnh của Kị, nên vẫn xảy ra tình hình tranh cãi, hoặc người phối ngẫu có ý giúp mệnh tạo, nói ngon nói ngọt khuyên can, nhưng mệnh tạo không tin, không ngó đến.

- Nếu lại tự Hóa Kị, là hình thành hiện tượng “Song Kị”, cả hai bên đều không tốt; mệnh tạo đối với người phối ngẫu hung hãn, người phối ngẫu cũng không chịu kém, thường khó sống với nhau đến bạc đầu.

Những điều bàn ở trên đều thuộc về thùy tưọng, cần phải đợi đến lúc tứ hóa của cung hạn (đại vận và lưu niên) khởi động, mới hình thành cục diện ứng nghiệm trong thực tế. Ví dụ như:

Ví dụ 1:

Lúc cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung mệnh, cung phu thê không được có tự Hóa Lộc, nếu cung phu thê lại tự Hóa Lộc, thì hôn nhân của vợ chồng ắt dễ sinh biến. Ngược lại, lúc cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung mệnh, cung phu thê không được tự Hóa Kị, nếu cung phu thê lại tự Hóa Kị, thì hôn nhân của vợ chồng cũng vậy, sẽ sinh biến.

Ví dụ 2:

Cung phu thê có Hóa Lộc [năm sinh] tọa thủ, lại tự Hóa Lộc, đây là Lộc xuất, có tượng không biết trân quý, vợ chồng cũng sẽ li hôn. Có điều, tình hình li hôn ít hơn trường hợp cung phu thê có Hóa Kị [năm sinh] lại tự Hóa Kị. Tình hình li hôn của Hóa Lộc [năm sinh] gặp tự Hóa Lộc, là: “Đã không thể đối xử tốt với nhau, thà chia tay nhau trong vui vẻ còn hơn”; còn trường hợp Hóa Kị [năm sinh] gặp tự Hóa Kị thì: “không thể đối xử tốt với nhau, thà chia tay sớm còn hơn”. Liên quan đến thời điểm li hôn, lúc lưu niên trong đại vận đến cung phu thê của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập hoặc phi Hóa Kị xung, là năm ứng số.

Trong lí thuyết của Tử Vi Đẩu Số, lưu niên có thiên can khác nhau sẽ có tứ hóa khác nhau nhập vào các sao nhất định nào đó. Nhưng tứ hóa sẽ tùy theo cung các sao tọa lạc mà bố trí, vì trong tinh bàn có 12 cung vị địa chi có thuộc tính ngũ hành, các cung vị này là đại hoàn cảnh dung chứa các sao, cho nên thuộc tính ngũ hành của chúng có thể kiềm chế hoặc làm tăng hay giảm tác dụng của các sao. Trên nền tảng tính toán này, 12 cung chức (cung mệnh, cung huynh đệ, v.v...) lại được kết cấu trong khung giá 12 cung vị (Tí, Sửu, v.v...)chỏ nên mỗi một cá nhân sẽ tùy theo cung vị mà xuất hiện tứ hóa có tác dụng mạnh hay yếu; cũng do nhân tố cung vị mà các sao sẽ có công dung mạnh yếu khác nhau.

Lấy Hóa Lộc để thuyết minh, công dụng của nó có thể là dục tình, ham muốn hư vinh, ham hiểu biết, cảm xúc tình thân, ham muốn tiền bạc vật chất, ý thức, sức bao dung, v.v... tức là ở cung khác nhau và tùy theo nó nhập vào sao nào mà xuất hiện tính chất hoạt động đặc biệt của nó. Do đó, sao mà nó nhập vào cũng sẽ nổi bật tính tích cực. Vì vây Hóa Lộc có thê là khởi đầu của niệm thiện, mà cũng có thể nguồn cơn của niệm ác; đối với mệnh tạo nó có thể giúp ích, mà cũng có thể dẫn đến họa hoạn. Điều này cho thấy Hóa Lộc không nhất định cát lợi; Hóa Kị cũng nhất định là hung hiểm; Hóa Quyền có thể làm tăng độ tích cực của hành động, mà cũng có thể làm cho hành động thành mất ổn định, thiên lệch (lúc nó nhập cung mệnh, cung phu thê, hay cung nô bộc, thậm chí cũng có thể xảy ra hiện tượng có mới nới cũ, hay thay đổi).

Can cung khiến cho cung này xảy ra hiện tượng tự hóa, có thể xem là yêu cầu điều chỉnh. Lúc cung mệnh thấy tự hóa, có thể định nghĩa là “cần phải vượt quá giới hạn”; lúc ở tha cung thấy tự hóa, xét ở góc độ của mệnh tạo, là “đòi hỏi vượt quá giới hạn”, nhưng đứng ở lập trường của người kia thì biến thành “trả giá vượt quá giới hạn”. Lấy cung mệnh làm ví dụ, lúc cung mệnh tự Hóa Lộc, đó là mệnh tạo cần phải vượt quá giới hạn, chưa tính đến ý tượng của sao tọa thủ, mệnh tạo sẽ theo đuổi dục tình nhiều hơn, làm cho hình tượng bản thân hoàn mĩ hơn, hoặc cảm giác thỏa mãn về bản thân hơn.

Lúc cung phu thê tự Hóa Lộc, đứng ở lập trường của mệnh tạo, đó là yêu cầu người phối ngẫu phải có tác dụng “Lộc” vượt quá giới hạn; “Lộc” ở đây có thể là tiền bạc, tình cảm, dục tình, vui vẻ, hạnh phúc, hài hòa, hoặc có tình thân ấm áp hơn đối với người nhà của họ, được vậy mới có thể thành người phối ngẫu của mệnh tạo. Các sao ở cung phu thê là đại biểu cho sinh mệnh thể khác của mệnh tạo, nếu có Hóa Quyền là người ấy có sự tự chủ trong cách biểu đạt tình cảm, hay tự chủ đối với sự chi phối tiền bạc và ý thích sử dụng; nhưng nếu phải thỏa mãn yêu cầu của mệnh tạo, đó là hơi bị “mất mát”, cho nên sau khi hôn nhân thành lập người phối ngẫu sẽ có cảm giác giống như “thiên đường đã mất”. Ví dụ như, nếu người phối ngẫu không chịu thỏa hiệp, vậy mệnh tạo rất có thể sẽ tìm người khác, nhất là lúc nhu cầu tâm sinh lí tình dục bị “biến tướng”, có thể hôn nhân sẽ rơi vào nguy cơ. Nhưng không phải hễ thấy cung phu thê tự Hóa Lộc thì sẽ li dị, mà cần phải truy cứu can cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung nào, và tính toán kết cấu của các bộ phận liên quan trong mệnh bàn mới có thể đưa ra định luận. Còn muốn biết mệnh tạo đòi hỏi điều gì vượt quá giới hạn, thì cần phải xem sao nào tự Hóa Lộc mà định; từ đó mới có thể phân biệt đó là đòi hỏi tình thân, tình dục, tiền bạc, hay đòi hỏi sự quan tâm, tình người, kinh nghiệm sống, đòi hỏi phải thấu hiểu nhân tình thế thái, v.v....

Lại lấy cung phu thê tự Hóa Kị làm ví dụ, đứng ở lập trường của mệnh tạo, đây là lấy “giao gánh vác trách nhiệm quá giới hạn” làm điều kiện để thành người phối ngẫu của mình; còn đứng ở lập trường của người phối ngẫu, thì đây là nhận chịu mà không lường được gánh nặng. Mệnh tạo có thể nghĩ rằng, đã thành vợ chồng, vậy người phối ngẫu phải giúp mình nhận chịu trách nhiệm hoặc áp lực,v.v... để tìm sự đồng thuận. Với tính cách nặng chủ nghĩa cá nhân, mệnh tạo càng có thể chủ quan cho rằng người phối ngẫu không cách nào đồng tâm hiệp lực, không đủ điều kiện làm người phối ngẫu của mình, còn có thể cho rằng sau khi kết hôn là những ngày tháng quá khổ sở, làm tăng thêm gánh nặng cho mình. Vì vậy người cung phu thê thấy tự Hóa Kị, thông thường sẽ kết hôn muộn; có điều, sở dĩ chậm kết hôn có thể là vì không gặp được đối tượng vừa ý, hoặc có bạn bè trai gái nhưng không có phúc để hưởng. Vì sau khi kết hôn, cuộc sống hôn nhân nhất định sẽ làm cho người phối ngẫu cảm thấy không thích hợp hoặc cảm thấy có quá nhiều áp lực; vì vậy, thường thường nếu gặp người phối ngẫu có tính tốt thì họ sẽ âm thầm nuốt nước mắt; nếu là người hơi mạnh mẽ một chút, vì không cách nào nhịn nổi nên họ sẽ tìm cách ra đi. Những tình hình này phải xem phi Hóa Lộc nhập vào cung nào, và kết cấu mệnh bàn như thế nào mới có thể đưa ra luận định. Xét ở góc độ khác, đối với trường hợp cung phu thể có kết cấu này, nếu có thể sống với nhau đến bạc đầu, như vậy trước đó nhất định đã có người không cách nào chịu đựng được “vở bi kịch tình yêu” này.

Các sao ở cung phu thê là biểu thị hình tượng của người phối ngẫu, nhưng đối với người suốt đời không kết hôn, vậy các sao ở cung phu thê đại biểu cho cái gì? Lúc cung phu thê xuất hiện Hóa Quyền [năm sinh], có thể nói nhờ hôn nhân mà mệnh tạo có được địa vị xã hội; có thể xác định người phối ngẫu không chủ động gây ảnh hưởng hoặc can dự vào sự nghiệp của mệnh tạo. Còn cung phu thê tự Hóa Quyền thì người phối ngẫu sẽ ảnh hưởng đến sự nghiệp của mệnh tạo; tự Hóa Lộc hay tự Hóa Khoa cũng vậy; nhưng tự Hóa Kị thì sẽ xảy ra ảnh hưởng tiêu cực! Xin các bạn đừng quên, cung tự hóa sẽ chiếu đối cung, làm cho đối cung trực tiếp sinh ra biến động thay đổi với mức độ tương ứng!

Giả thiết ông A có cung phu thê là Vũ Khúc tọa thủ, can cung là Nhâm, khiến Vũ Khúc tự Hóa Kị. Đây là kết cấu bất lợi về hôn nhân. Lúc hành hạn nhập cung phu thê, cung phu thê của nguyên cục sẽ biến thành cung mệnh của đại vận, đương nhiên sẽ khởi động Vũ Khúc tự Hóa Kị. Lúc chúng ta nói người phối ngẫu của ông A không tốt, có bỏ qua “đức tính” của ông A không? Bối cảnh cung phu thê của nguyên cục tự Hóa Kị cũng có thể là bối cảnh cung mệnh của đại vận tự Hóa Kị, như vậy có thể nói người phối ngẫu không tốt không?! Hay là bản tính của mệnh tạo vốn có thiếu sót? Đây là điều đáng để suy nghĩ. Nếu các bạn biết rõ tính của sao, vậy sẽ thấy được Vũ Khúc ở cung phu thê tự Hóa Kị là chủ về ông A có thể rất khó kết hôn!

Giả thiết cung mệnh của ông A ở cung Tí, vậy cung phu thê tất nhiên sẽ ở cung Tuất, mà cung Tuất là cung Thiên La Địa Võng,.có thể nói ông A làm cho người phối ngẫu nhập “thiên la địa võng”. Lại giả thiết cung phu thê của ông A là Tử Vi tọa thủ, là biểu thị người phối ngẫu sẽ là quý nhân của ông A? Sẽ đối tốt với ông A? Giả thiết cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung mệnh hoặc phi Hóa Lộc nhập cung mệnh, vậy người phối ngẫu sẽ có thái độ đối xử khác nhau thế nào với ông A?

Lại giả thiết cung phu thê là vô chính diệu, còn cung phúc đức lại thấy Hóa Kị [năm sinh], vậy hôn nhân của họ cũng chỉ có thể là cuộc tình lãng mạn; dù có kết hôn, sau khi kết hôn cũng sẽ khá khổ sở. Nhưng nếu cung phu thê là vô chính diệu, còn cung phúc đức thấy Tả Phù hoặc Hữu Bật, đây ý tượng kết hôn lần thứ hai mới cát.

Phi cung hóa tượng của cung tử nữ:

(1) Cung tử nữ phi Hóa Lộc hoặc phi Hóa Kị nhập cung huynh đệ, là ý tượng: đối tượng đào hoa phần nhiều là người trẻ tuổi, nặng về đùa giỡn, phần nhiều giao du với người khác giới chưa kết hôn.

(2) Cung tử nữ phi Hóa Lộc hoặc phi Hóa Kị nhập cung tài bạch, xảy ra đào hoa phần lớn đều phải tiêu xài tiền, cần dùng tiền để mua. Do đối cung là cung phúc đức, cho nên muốn dùng tiền để tìm bạn tình vui chơi.

(3) Cung tử nữ phi Hóa Lộc hoặc phi Hóa Kị nhập cung tật ách, là ý tượng: xảy ra vận đào hoa phần nhiều đối tượng đều có tuổi tác lớn hơn, đã li hôn, hoặc chồng (vợ) đã qua đời, cũng có trường hợp họ vẫn còn chồng (vợ).

(4) Cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập cung thiên di và chiếu cung mệnh, là ý tượng: mệnh tạo giỏi giao tế, có duyên với người chung quanh, có đào hoa. Lúc này nếu gặp cung thiên di tự Hóa Kị, thì lại là tưọng chẳng liên quan gì tới đào hoa, mà chủ về xuất ngoại tuy tốt, nhưng không có quý nhân tương trợ (không được hiểu lầm là có vấn đề đào hoa). Giả thiết cung thiên di không phải tự Hóa Kị, mà là tự Hóa Lộc, tượng này lại chủ về đào hoa rất mạnh, còn thuộc loại thích đào hoa, nhưng loại đào hoa này sẽ không gây ra phiền phức gì, mà có hiện tượng là quý nhân.

(5) Cung tử nữ phi Hóa Lộc hoặc phi Hóa Kị nhập cung quan lộc, là ý tượng: có duyên với người chung quanh, có nhiều bạn khác giới, thích vui chơi ở bên ngoài.

(6) Cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập cung tứ chính mệnh di tử điền, là ý tượng: cuộc đời ắt nhiều đào hoa. Nếu cung Lộc nhập có tự Hóa Kị, là có tác dụng kiểm soát đối với đào hoa này; nếu không, bất kể trong tình hình nào cũng đều không thể ngăn cản sự kiện đào hoa xảy ra.

(7) Cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập cung phu thê, nhất định nhiều đào hoa, nếu gặp cung phu thê có sao Hóa Kị [năm sinh] tọa thủ, thì thành cái động không có đáy, vì Lộc không kiểm soát nổi Kị. Ngoài ra, Kị tiên thiên rất sợ Lộc hậu thiên đến xung phá, xung thì thành "Song Kị”, là tượng Lộc xuất, gặp tình huống này, đào hoa tuy nhiều nhưng không có đối tượng nào có thể kết hôn, muốn lấy chồng hay lấy vợ đều khó.

(8) Cung tử nữ tự Hóa Lộc chiếu cung điền trạch hay cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập cung điền trạch quay lại tự chiếu, hoặc cung điền trạch tự Hóa Lộc chiếu cung tử nữ, ắt chủ về người này có nhu cầu tính dục khá mạnh, nhưng tính dục mạnh không phải là nhiều đào hoa, tượng này thuộc về vấn đề nhục dục, mà không có ý vị đào hoa luyến ái. Nhưng cung tử nũ phi Hóa Lộc, chỉ lúc nhập cung tự Hóa Kị mới xảy ra tác dụng kiểm soát, kiềm chế không cho xảy ra sự kiện đào hoa.

Luận đoán sắc tình nam nữ:

Đời người khó thoát khỏi ba vấn đề “bệnh sắc tình, bệnh tiền bạc, bệnh cơ thể”, cho nên các đề tài khi luận đoán mệnh lí cũng thường lặp đi lặp lại, không ngừng vướng mắc vây quanh ba vấn đề kể trên. Trong tiết này chúng ta chỉ đứng từ góc độ phi cung hóa tượng theo lí luận của Khâm Thiên môn để luận giải hiện tượng sắc tình của nam nữ, như sau:

(1) Cung tử nữ họặc cung điền trạch phi Hóa Kị nhập cung mệnh hoặc nhập cung thiên di chiếu cung mệnh, cũng sẽ có vấn đề đào hoa, nhưng không nhất định là tính dục mạnh, là chủ về duyên với người khác giới mạnh nhưng không loạn. Do cung tử nữ và cung điền trạch có liên quan đến tính dục, cho nên cũng có liên quan đến cơ thể, vì vậy lúc cung tử nữ hay cung điền trạch phi Hóa Lộc hoặc phi Hóa Kị, nếu nhập tuyến “phụ tật”, ắt sẽ có liên quan đến cơ thể và liên quan đến sinh hoạt tính dục, tức cũng liên quan đến tình trạng đào hoa thể xác, “đào hoa thể xác” có nghĩa là bán thân, bán dâm.

(2) Cung tử nữ hoặc cung điền trạch bất kể phi Hóa Lộc hay phi Hóa Kị, nếu đối cung có Lộc, Quyền, Khoa, Kị, thì suốt đời mang vận đào hoa. Tức nếu cung tử nữ phi Hóa Lộc hoặc phi Hóa Kị nhập cung điền trạch; hoặc cung điền trạch phi Hóa Lộc hoặc phi Hóa Kị nhập cung tử nữ; hoặc lúc cung tử nữ hay cung điền trạch tự Hóa Lộc hoặc tự Hóa Kị, gặp đối cung có Lộc Quyên Khoa Kị thì suốt đời mang vận đào hoa.

(3) Cung tử nữ phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, hoặc Hóa Kị nhập cung tật ách, là ý tượng: vui chơi nhục dục, người này tính dục mạnh mà còn có đào hoa theo bên mình. Cung tử nữ phi Hóa Kị nhập cung phu thê, là đào hoa của mệnh tạo; cung tài bạch phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, hoặc Hóa Kị nhập cung phu thê, là đào hoa của người phối ngẫu.

(4) Cung tử nữ phi Hóa Lộc bất kể nhập cung huynh đệ hay nhập cung nô bộc, đều chủ về có duyên với người khác giới. Nếu Lộc nhập tuyến “tài phúc”, thì cùng một cách lí giải, đây thuộc về đào hoa của mệnh tạo, bản thân đương sự có tình nhân ở bên ngoài. Ngoài ra, cung tật ách là cung vị tử nữ của cung phu thê, cho nên nếu cung tật ách phi Hóa Lộc nhập tuyến “huynh nô”, hoặc nhập tuyến “tài phúc”, là thuộc về hiện tượng đào hoa của người phối ngẫu, đối tượng hôn phối có tình nhân ở bên ngoài. Hai tuyến“huynh nô”, “tài phúc” khác nhau ở chỗ: Nhập tuyến “huynh nô” là chủ về nhục dục, nặng về “niềm vui tính giao”, không phân biệt “hoa nhà” hay “hoa dại”; còn nhập tuyến “tài phúc” là chủ về có duyên với người khác giới, sẽ tiêu xài tiền để hưởng thụ, có thiên hướng về “hoa dại”.

(5) Nếu là nữ mệnh, cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập tuyến “huynh nô", do rất có duyên với người khác giới, nên có thể thành người trong giới nghệ thuật biểu diễn, ca sĩ; nếu sao đào hoa có sát tinh đồng độ, phần nhiều dễ bị quyến dụ vào chốn phong trần hoặc làm những nghề phục vụ tương tự.

(6) Nếu trong cung tử nữ có sao Hóa Kị [năm sinh], mà cung này lại tự Hóa Lộc, tự Hóa Lộc quy về tự Hóa Lộc, vì Hóa Kị [năm sinh] ở cung tử nữ là ý tượng: quá yêu thương chìu chuộng con cái, có hàm ý “mắc nợ” con cái; cung nó xung là cung điền trạch, mà cung điền trạch là chủ về người trong gia đình và tổ nghiệp, không có liên quan với đào hoa, tượng không được nói lẫn lộn vào đào hoa. Nhưng giả thiết sao hành hóa của cung tử nữ có liên quan đến đào hoa, ví dụ như cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập cung phu thê, là ý tượng: quan tâm chăm sóc, yêu quý, sủng ái người phối ngẫu; nếu lúc này lại gặp cung phu thê tự Hóa Lộc, thì tự Hóa Lộc sẽ quy về tự Hóa Lộc, là biểu thị người phối ngẫu cảm động và cũng đáp lại tấm lòng yêu quý của mệnh tạo giống như vậy. Vì Lộc nhập cung phu thê là Lộc chiếu cung quan lộc, là ý tượng: mệnh tạo đi làm được mọi người ưa thích. Vì cung tử nữ là cung vị nô bộc của cung quan lộc, nên đây là khách hàng của sự nghiệp làm ăn mang Hóa Lộc nhập vào cung sự nghiệp, có nghĩa là, mở rộng hoạt động làm ăn.

(7) Cung tử nữ là cung chủ yếu dùng để xem về đào hoa. Cung mệnh là cung vị điền trạch của cung tử nữ, cung điền trạch là cung vị thiên di của cung tử nữ; cung thiên di là cung vị tử nữ của cung tử nữ, đây là xem ở góc độ đào hoa. Do đó muốn xem đào hoa cần phải nắm vững nguyên tác này, còn có sự kiện đào hoa hay không thì phải phân biệt Lộc Kị nhập cung nào. Nếu cung tử nữ phi Hóa Khoa nhập cung mệnh, lúc có hiện tượng đào hoa, ắt do người khác giới thiệu mà đào hoa đến.

(8) Cung tử nữ còn là cung chủ yếu để xem về sinh hoạt tính dục ưu hay liệt; do đó, nếu cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập cung phu thê, hoặc nhập cung quan lộc chiếu cung phu thê, là ý tượng: mệnh tạo đối xử tốt với người phối ngẫu, có thể làm cho người phối ngẫu thỏa mãn tính dục. Còn nếu cung tật ách phi Hóa Lộc nhập cung mệnh, hoặc nhập cung thiên di chiếu cung mệnh, là ý tượng: người phối ngẫu đối xử tốt với mệnh tạo, có thể làm cho mệnh tạo thỏa mãn tính dục.

(9) Giả dụ cung tật ách phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức chiếu cung tài bạch, và phi Hóa Kị nhập cung phu thê, là ý tượng: người phối ngẫu phối hợp được với mệnh tạo trong sinh hoạt tính dục, đồng thời có lúc cũng chủ động yêu cầu, hai bên có thể làm thỏa mãn cho nhau. Vì cung tật ách là cơ thể của mệnh tạo, là đào hoa của người phối ngẫu, còn cung phúc đức là cung vị sự nghiệp của người phối ngẫu, phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức tức là chiêu cung tài bạch, mà cung tài bạch lại là người phối ngẫu của người phối ngẫu (tức mệnh tạo); phi Hóa Kị nhập cung phu thê, chính diệu đào hoa của người phối ngẫu nhập cung mệnh của người phối ngẫu; căn cứ nguyên tắc “Lộc đi theo Kị”, thì biết có thể biết được vợ chồng hòa hợp về phương diện sinh hoạt tính dục; ngược lại, nếu không phải là tình huống “Lộc đi theo Kị”, thì đây là hiện tượng không vui hoặc không hay.

(10) Nam mệnh dùng cung tử nữ để xem đào hoa, còn lấy cung tật ách để xem người phối ngẫu có tính đố kị và ghen tuông hay không. Vì cung tật ách là cung vị tử nữ của cung phu thê. Giả dụ cung tật ách phi Hóa Kị nhập cung mệnh, là chủ về người phối ngẫu có tính đố kị (lúc xem về tình trạng sức khỏe cơ thể thì luận khác). Nếu muốn xem người phối ngẫu có đào hoa hay không, thì phải lấy cung phu thê lập thái cực, dùng phi cung hóa tượng của cung tật ách quy về cung phu thê để luận giải. Nếu cung tật ách phi Hóa Kị nhập cung phu thê, là ý tượng: người phối ngẫu cũng thuộc cách cục đào hoa.

(11) Nam mệnh, cung tử nữ phi Hóa Lộc nhập tuyến “huynh nô”, phần lớn có liên quan đến đào hoa; cùng một lí, nữ mệnh nếu cung phúc đức phi Hóa Lộc nhập tuyến “huynh nô” thì cũng vậy, có liên quan đến đào hoa. Nam mệnh, cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung nô bộc, do cung nô bộc là cung vị tử nữ của cung tài bạch, hơn nữa, cung tài bạch chủ về nam, lại là cung vị tật ách của cung phu thê, cho nên tượng đào hoa này thuộc về đào hoa của người phối ngẫu.

(12) Cung tử nữ của nguyên cục phi Hóa Kị nhập cung phu thê, không có liên quan đến tình hình đối đãi với nhau của hai người mà có liên quan đến tình hình sinh đẻ. Vì cung tử nữ phi Hóa Kị nhập cung phu thê xung cung quan lộc là cung vị tật ách của cung tử nữ, tượng này là Kị xung cơ thể của con cái, cho nên có thể là không có con cái, dù có cũng khó nuôi dưỡng hoặc không giữ được. Nói rộng ra: nam mệnh nếu cung mệnh là Thái Âm tọa thủ, Thái Âm chủ về phái nữ, giả dụ như cung mệnh phi Hóa Kị nhập cung quan lộc xung cung phu thê, có thể đoán cơ thể của vợ không khỏe; luận về bệnh tật thì thuộc về bệnh phụ khoa có liên quan đến tử cung, buồng trứng, nội tiết.

Nam mệnh, muốn biết người phối ngẫu như thế nào? Phải xem cung phu thê. Muốn biết mệnh tạo như thế nào? Thì phải xem cung tài bạch, vì cung tài bạch là cung vị phu thê của cung phu thê, tức là mệnh tạo. Theo người xưa, nữ mệnh, muốn xem người phối ngẫu như thế nào phải xem cung phúc đức, vì cung phúc đức là cung vị chồng, mà nữ mệnh lấy chồng làm quý, cho nên lúc muốn xem tình hình đối đãi nhau, nữ mệnh phải xem cung vị quan lộc của cung phu thê, tức phải xem tình hình phi cung hóa tượng của cung phúc đức như thế nào.

(13) Lấy hai vợ chồng để nói, hai cung tài bạch và phúc đức thành cung vị đối đãi giữa vợ chồng, lí lẽ là ở đây. Cũng chính là nói, bất kể cung mệnh hay cung phu thê, phi Hóa Kị không được nhập tuyến “tài phúc”, nhập thì tình hình đối đãi nhau ắt sẽ không hay, thời điểm xảy ra chuyện không hay, bất luận hành hạn đi thuận hay đi nghịch, thường thường đến đại vận thứ 4 hay thú 5 thì ứng nghiệm. Nếu muốn tìm hiểu sâu thêm nguyên nhân của chuyện không hay và diễn biến thành kết quả cuối cùng, đương nhiên cung Lộc nhập hay Kị nhập có tự hóa hay không sẽ có ý nghĩa khác nhau, có tự hóa thì có biến động thay đổi.

(14) Nói rộng ra, cung phúc đức phi Hóa Lộc nhập cung điền trạch, phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, là ý tượng: tranh chấp giữa vợ chồng có liên quan đến con cái. Khoan bàn đến phi Hóa Lộc, chỉ xét cung phúc đức phi Hóa Kị nhập cung tử nữ xung cung điền trạch, thì đã biết gia đình có tranh chấp, muốn biết tranh chấp thế nào? Thì xem Hóa Lộc nhập cung nào?

(15) Nữ mệnh, nếu cung phúc đức phi Hóa Kị nhập cung thiên di xung cung mệnh, là ý tượng: chồng đối xử với nàng không tốt; nếu là cung phúc đức phi Hóa Kị nhập cung tài bạch quay lại xung cung phúc đức, là ý tượng: chồng không yêu mà kết hôn với nàng, chồng không cho nàng tiền tiêu xài; nếu là cung phúc đúc phi Hóa Kị nhập cung quan lộc xung cung phu thê, là ý tượng: vợ chồng không giúp đỡ lẫn nhau; nêu là cung phúc đức phi Hóa Kị nhâp cung phu thê xung cung quan lộc, là ý tượng: chồng tính ích kỉ, không quan tâm đến nàng, nàng tự kiếm tiền tự tiêu xài.

(16) Cung mệnh phi Hóa Lộc nhập cung phu thê, một là chủ về mệnh tạo đối xử tốt với người phối ngẫu; hai là chủ về có duyên với người khác giới. Nếu cung tử nữ cũng Hóa Kị phi nhập cung phu thê, thì Lộc Kị ở cung phu thê thành “chiến khắc”, tượng này ắt sẽ xảy ra vãn đề giữa hai vợ chồng và vấn đề đào hoa, khó sống với nhau đến bạc đầu; vì lúc can cung khác nhau mà đồng cấp đồng thời phi Hóa Lộc và phi Hóa Kị nhập vào cùng một cung, sẽ chủ về “chiến khắc”.

(17) Nữ mệnh, muốn xem vấn đề đối đãi giữa vợ chồng, phải xem cung phúc đức, vì cung phúc đức là cung vị quan lộc của cung phu thê, vợ xem sự nghiệp của chồng là quý, cho nên cung phúc đức là cung vị chồng. Nếu cung phúc đức phi Hóa Kị nhập cung mệnh hay xung cung mệnh, là ý tượng: chồng hay can thiệp vào chuyện của nàng, nàng bị quản thúc. Nếu cung mệnh phi Hóa Kị phi nhập cung tài bạch xung cung phúc đức, sẽ chủ về mệnh tạo hay can thiệp, quản thúc chồng.

(18) Cung nô bộc là cung vị tử nữ của cung tài bạch, nếu cung nô bộc phi Hóa Kị nhập cung phu thê, là ý tượng: mệnh tạo hay ghen, muốn quản thúc đào hoa của người phối ngẫu. Mà cung tật ách lại là cung vị tử nữ của người phối ngẫu, nếu cung tật ách phi Hóa Kị nhập cung mệnh, cung mệnh là cung vị phúc đức của người phối ngẫu; cho nên chủ về người phối ngẫu yêu, hay ghen, lo lắng, và quản thúc đào hoa của mệnh tạo. Trường hợp trước người phối ngẫu không có lòng muốn kiếm tiền; trường hợp sau thì có tính đố kị. Xét ở góc độ khác, nếu cung tật ách phi Hóa Lộc nhập cung tử nữ, là ý tượng: có đào hoa; còn phi Hóa Kị nhập cung phu thê, do cung phu thể là cung vị điền trạch của cung tật ách, nên chủ về cơ thể của đối tượng hôn phối không được khỏe; cần phải có sự phân biệt mới không dẫn đến hỗn loạn.

(19) Nữ mệnh chưa kết hôn, nếu cung tật ách của nguyên cục phi Hóa Kị nhập cung phu thê, gặp cung phu thê tự Hóa Lộc, là “Lộc Kị chiến khắc”, là ý tượng: sau khi kết hôn, chồng dễ mất sớm, ứng kì là lúc lưu niên đến cung bị cung phu thê xung. Cũng vậy, nếu là nam mệnh, cũng chủ về sau khi kết hôn, vợ dễ mất sớm.

(20) Quan sát ở góc độ khác về quan hệ đối đãi giữa vợ chồng:

- Lúc cung thiên di không tốt, là ý tượng: vợ chồng đối đãi với nhau không tốt; do đó nếu cung thiên di tự Hóa Kị, ắt vợ chồng thường hay cãi vã nhau.

- Sau khi kết hôn, muốn xem có tình nhân ở bên ngoài hay không, hoặc có giao du với bạn khác giới hay không, có thể dùng cung điền trạch để quan sát, vì cung điền trạch là cung vị phu thê của cung nô bộc, cho nên chủ về bạn khác giới. Lúc cung điền trạch tự Hóa Kị thì có thể biết đối tượng mệnh tạo giao du là người chưa kết hôn. Nếu cung điền trạch tự Hóa Lộc là ý tượng: đối tượng mệnh tạo giao du có qua lại với người khác giới, hoặc có bạn khác giới.

- Cung diền trạch phi Hóa Kị nhập cung mệnh, là ý tượng: có thể giao du lâu dài, còn chủ về đối tượng không có con cái. Nhưng nếu cung điền trạch phi Hóa Kị nhập cung thiên di và xung cung mệnh, thì giao du không được lâu, còn biết được đối tượng rất lo cho gia đình, nhưng tình cảm vợ chồng của họ không được hòa mục. Giả dụ cung điền trạch phi Hóa Kị nhập cung thiên di và xung cung mệnh, còn phi Hóa Lộc nhập cung tử nữ, là ý tượng: đối tượng đã có con, và có thể đã li hôn.

- Cung điền trạch phi Hóa Lộc nhập cung mệnh hoặc chiếu cung mệnh, là ý tượng: đối tượng giao du có duyên với mệnh tạo, có ấn tượng tốt về mệnh tạo, hoặc có đào hoa nhưng không nhất định sẽ có quan hệ nhục dục; sao đào hoa Hóa Lộc nhập là chủ về có duyên, nhưng nếu muốn qua lại xác thịt thì phải tốn tiền mới được đối tượng chấp nhận.

- Can cung điền trạch khiến sao đào hoa Hóa Lộc nhập cung thiên di và chiếu cung mệnh, là ý tượng: có duyên phận; nhưng cung thiên di lại là cung vị điền trạch của cung điền trạch, sao đào hoa Hóa Lộc nhập cung thiên di là ý tượng: đối tượng đã có gia đình.

- Cung điền trạch phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, gặp cung tử nữ có Hóa Kị [năm sinh], là ý tượng: nhiều đào hoa, mà đào hoa là người có tiền, không cần mệnh tạo dùng tiền để mua đào hoa.

- Cung tật ách phi Hóa Lộc nhập cung tử nữ hoặc cung điền trạch, là có hiện tượng đào hoa. Cung phụ mẫu là cung vị điền trạch của cung phu thê, có thể lấy phi cung hóa tượng của nó để xem người phối ngẫu có đào hoa hay tình nhân ở bên ngoài không.

- Lúc cung tật ách có sao Hóa Quyền [năm sinh], do cung tật ách là cung vị tử nữ của cung phu thê, vì vậy là ý tượng: người phối ngẫu trước khi kết hôn đã có hành vi tính giao; nếu có sao Hóa Kị [năm sinh], thì chủ về trước khi kết hôn đã có hành vi vuốt ve âu yếm.

- Năm cung hạn lưu niên đến cung phu thê (nguyên cục) phi Hóa Kị nhập cung thiên di (nguyên cục) và xung cung mệnh (nguyên cục), tốt nhất không nên kết hôn, nếu không, sau khi kết hôn sẽ xảy ra tình trạng đối đãi nhau không như ý. Giả dụ như năm kết hôn gặp cung hạn có can Đinh (không phải là can của Thái Tuế lưu niên), tức can cung mệnh của lưu niên (tức can cung phu thê của nguyên cục) khiến Cự Môn Hóa Kị, vậy có thể dự đoán cuộc hôn nhân này có điều khổ tâm khó nói, chẳng hạn như chưa được cha mẹ đồng ý hoặc chưa chính thức nhập tịch.

(21) Có bốn hướng xem năm nam nữ kết hôn như sau:

- Xem cung phu thê của nguyên cục phi Hóa Kị nhập cung nào, nếu là “ngã cung”, bất luận cung này có tự hóa diệu hay không, cũng bất kể cung bị phi Hóa Kị xung là cung nô bộc của nguyên cục hay cung tật ách của nguyên cục, phần lớn đều kết hôn trong đại vận này.

- Lúc cung phu thê của đại vận phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa chia ra nhập các cung tam phương mệnh, tài, quan của nguyên cục, còn phi Hóa Kị nhập cung điền trạch của lưu niên trong đại vận đó, thì biết lưu niên này sẽ kết hôn.

- Lúc cung phu thê của đại vận phi Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa nhập các cung tam phương mệnh, tài, quan của đại vận, còn phi Hóa Kị nhập cung điền trạch của lưu niên trong đại vận này, cũng có thể kết hôn.

- Lúc tứ hóa của lưu niên khiến Hóa Lộc nhập cung tam hợp của cung phu thê (nguyên cục), còn Hóa Kị nhập cung tật ách của nguyên cục hoặc cung điền trạch của nguyên cục, đều có thể luận đoán là “hạn kết hôn”.

(22) Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập cung nào đó rồi chuyên phi Hóa Kị nhập cung phu thê, hoặc chuyển phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, là ý tượng: có tình nhân ở bên ngoài.

Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập cung phu thê, chuyển phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, là ý tượng: muốn kết hôn, lưu niên đến cung phúc đức sẽ ứng điềm kết hôn.

Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập cung điền trạch, chuyên phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, là ý tượng: đối tượng đào hoa hay đối tượng kết hôn là người lớn tuổi hơn mệnh tạo nhiều, hoặc là người đã kết hôn.

Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập cung tử nữ, chuyển phi Hóa Kị nhập cung điền trạch, đối tượng là người nhỏ tuổi hơn mệnh tạo nhiều.

Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập cung tử nữ, mà cung tử nữ tự Hóa Kị xuất, là ý tượng: chưa kết hôn mà đã ở chung như vợ chồng. Hóa tượng loại này nếu kết hôn chính thức phần nhiều sẽ li hôn.

(23) Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, là ý tượng: nữ mệnh dễ mắc bệnh phụ khoa, nam mệnh dễ có tình nhân ở bên ngoài.

Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, mà cung tử nữ lại tự Hóa Kị xuất, là ý tượng: không có tình nhân ở bên ngoài.

(24) Cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, là ý tượng: vợ ngoại tình; nếu đã sinh con thì có thể tránh sự kiện này.

Cung phu thê phi Hóa Kị nhập cung thiên di và xung cung mệnh, là ý tượng: phần nhiều sẽ li hôn, nhưng nếu người phối ngẫu nhỏ hơn trên bảy tuổi thì không sao.

(25) Cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung mệnh, chuyển phi Hóa Kị quay lại xung cung phu thê, là ý tượng: vợ chồng ở hai nơi.

Cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung mệnh, chuyển phi Hóa Kị nhập cung phụ mẫu và xung cung tật ách, là ý tượng: vợ chồng ở hai nơi, hoặc gần nhau ít mà xa nhau nhiều.

Cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức, cung phúc đức lại tự Hóa Kị xuất, là ý tượng: hôn nhân không bình thường.

Nam mệnh, cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức,chuyển phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, là ý tượng: có nhị phòng.

Nam mệnh, cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức, chuyển phi Hóa Kị nhập cung điền trạch, nhị phòng là phụ nữ phong trần.

Nữ mệnh, cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung phúc đức, chuyển phi Hóa Kị nhập cung quan lộc và xung cung phu thê, không có mệnh làm chính thất, là ý tượng: mạng làm nhị phòng.

Nữ mệnh, cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung nô bộc, chuyển phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, cũng là mạng làm nhị phòng.

Nữ mệnh, cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung phụ mẫu, chuyển phi Hóa Kị nhập cung tử nữ, cũng là mạng làm nhị phòng. Do cung phụ mẫu là cung vị tài bạch của cung nô bộc, cho nên có thể biết người này dễ luân lạc chốn phong trần.

- Nữ mệnh, cung phu thể phi Hóa Lộc nhập cung mệnh, chuyển phi Hóa Kị nhập tuyến “tử điền”, phần lớn là phụ nữ phong trần.

(26) Cung phu thê có sao Hóa Quyền [năm sinh], cung mệnh của đại vận còn phi Hóa Quyền nhập cung phu thê, là ý tượng: lúc kết hôn có quan hệ tay ba.

(27) Cung tử nữ là cung giải trí, và dùng để xem về con cái, hợp tác, đào hoa. Cung tử nữ phi Hóa Quyền nhập cung mệnh, là ý tưọng: sẽ bị khinh bạc.

(28) Cung tử nữ phi Hóa Kị nhập cung mệnh, là ý tượng: con cái đều có đào hoa, thuộc loại đào hoa bị động. Cung tử nữ phi Hóa Kị nhập cung nô bộc, mà cung nô bộc là cung vị tật ách của cung phu thê, vì vậy biết được nhất định sẽ có con cái.

Cung tử nữ phi Hóa Kị nhập cung phụ mẫu và xung cung tật ách, là ý tượng: sức khỏe của con cái không được tốt, hoặc khó sinh; hoặc sau khi sinh, sức khỏe của mệnh tạo không được tốt.

(29) Cung tài bạch phi Hóa Kị nhập cung tật ách, mệnh tạo là người thương tiền, kiếm tiền vất vả; nếu là nữ mệnh, có khả năng sẽ dùng cơ thể để kiếm tiền gió trăng.

Trên chỉ là thuật về ý tượng phi hóa, ngoài ra, còn có thể căn cứ tính và tình của các sao đào hoa để xem có thành phần sắc tình nam nữ hay không. Lúc luận đoán mệnh, cần phải quan sát tình trạng của toàn bộ mệnh bàn, không được chỉ đơn thuần căn cứ những điều đã thuật ở trên mà đưa ra kết luận.

Theo: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số

Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ