By Tử Vi Chân Cơ| 15:50 26/04/2024|
Tứ Hóa Bắc Phái

NGUYÊN TẮC THỂ DỤNG

Mối quan hệ thể dụng có thể chia thành hai loại như sau: Tự làm thể và dụng, làm thể và dụng của nhau.

(1) Tự làm thể và dụng:

Theo Khâm Thiên môn, mười hai cung trên mệnh bàn, mỗi một cung lấy can cung phi hóa để phân thể dụng, đây gọi là “tự làm thể và dụng“. Can cung phi tứ hóa sẽ hiện ra thùy tượng, đây chỉ là "cách” mà thôi, chưa ứng cát hung.

Ví dụ như: nam mệnh, can cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập cung thiên di, phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, là ý tượng: người này ở bên ngoài có duyên với người hoặc trong công việc nhờ có duyên với người mà đắc tài lộc, nhưng vì Hóa Kị nhập cung phúc đức và xung cung tài bạch, cho nên không biết hưởng thụ, đây là “cách hậu thiên” của mệnh tạo. Nếu lấy can cung phu thê của nguyên cục phi Hóa Lộc nhập cung tử nữ, phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, tức phi Hóa Lộc nhập cung vị huynh đệ của cung phu thê, phi Hóa Kị nhập cung vị quan lộc của cung phu thê, đây là “cách hậu thiên” của người phối ngẫu, là ý tượng: người phối ngẫu khá quan tâm anh em trai và chị em gái hoặc mẹ của nàng, hơn nữa còn xem trọng sự nghiệp của bản thân. Các cung khác cứ chiếu theo can cung phi tứ hóa, hiện ra ý tượng cũng chỉ là “cách hậu thiên” của các cung, "cách" chưa ứng cát hung.

(2) “Làm thể và dụng của nhau“:

Là có chủ thể và mối quan hệ phụ thuộc, cũng có thể nói, xem ai là vai chính, ai là vai phụ, vai chính là “thể”, vai phụ là “dụng", vì có hai cung để so sánh nên sẽ hình thành tình trạng đối đãi nhau, là thuộc phạm vi của “cách", chưa luận cát hung. Đã có tượng ắt sẽ có vật của nó, nhưng phải đợi đến hành hạn đại vận và lưu niên mới ứng cát hung.

Ví dụ như: nam mệnh, lấy cung mệnh và cung phu thê để luận, muốn xem người phối ngẫu của mệnh tạo tốt hay xấu, đương nhiên phải lấy cung mệnh làm vai chính, là “thể”, người phối ngẫu (cung phu thê) là vai phụ, là “dụng”, xem tứ hóa phi nhập cung nào thì biết. Giả thiết can cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung mệnh, phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, là ý tượng: người phối ngẫu yêu mệnh tạo, quan tâm mệnh tạo, nhưng sẽ quản thúc việc sử dụng tiền bạc của mệnh tạo. Trái lại, muốn xem mệnh tạo đối xử với người phối ngẫu tốt xấu thế nào, thì lấy cung phu thê làm vai chính, là “thể”, cung mệnh là vai phụ, là “dụng”, xem tứ hóa phi nhập cung nào của người phối ngẫu. Nếu can cung mệnh phi Hóa Lộc nhập cung nô bộc của nguyên cục, phi Hóa Kị nhập cung tài bạch của nguyên cục, cũng tức là phi Hóa Lộc nhập cung vị tật ách của cung phu thê, phi Hóa Kị nhập cung vị phu thê của cung phu thê, là ý tượng: mệnh tạo quan tâm sức khỏe của người phối ngẫu, không thích người phối ngẫu quá xem trọng công việc. Đây là hai cung “làm thể và dụng của nhau" sản sinh cách cục đối đãi nhau, cũng vậy, không luận cát hung, chỉ là thùy tượng mà thôi, nhưng lúc hành hạn đến đại vận thứ 3 sẽ xảy ra cát hung.

Trong trường hợp “Song hóa tinh tính cung”, cũng không ngoài phạm trù “làm thể và dụng của nhau“, nhưng hơi đặc biệt hơn mà thôi. Về cơ bản, ở các cung vị các bạn đều có thể biết rõ tình hình xảy ra, chỉ lúc ở các cung Tí Dần, Sửu Mão có cùng can, mới hình thành tình trạng hai hóa diệu ở cùng một cung. Cho nên bất luận nam mệnh hay nữ mệnh, trước tiên phải biết mệnh bàn này là mệnh của “ta”, đương nhiên phải lấy mệnh tạo làm chủ, cũng chính là nói, “ta" là vai chính, là “thể”; xem ai là vai phụ, tức cung nào xảy ra mối quan hệ phụ thuộc, là “dụng”; vận dụng nguyên tắc “làm thể và dụng của nhau", phối hợp thùy tượng của chúng mà luận đoán.

Ví dụ như: Nếu cung mệnh ở Thìn, cung phu thê ở Dần, cung tài bạch ở Tí; do mệnh bàn là của “ta”, “ta” chính là “thể”, cung phu thê và cung tài bạch là “dụng”. Về nguyên tắc, trước tiên lấy “ta” (cung mệnh) làm “thể", cung phu thể làm “dụng”, nếu cung phu thê phi Hóa Lộc nhập cung tử nữ, phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, là ý tượng là người phối ngẫu khá thương yêu, quan tâm con cái, có quan niệm không hợp với “ta" (xung cung tài bạch là có thể không nhất trí về quan niệm quản lí tiền bạc); kế đến, lấy “ta” (cung mệnh) làm “thể”, cung tài bạch làm “dụng”, nếu cung tài bạch phi Hóa Lộc nhập cung thiên di, phi Hóa Kị nhập cung phúc đức, là ý tượng: “ta” ra ngoài kiếm được tiền là nhờ có duyên với người, nhưng cũng vì vậy mà thích hưởng thụ, tiêu xài hết tiền. Hai sự kiện (hai tượng Hóa Kị) khác nhau cùng tụ tập ở cung phúc đức, sau khi tổng hợp sẽ là ý tượng: “ta" phải ra ngoài kiếm tiền, rồi cầm tiền đi thù tạc, hưởng thụ, nhưng người phối ngẫu (là quan hệ của cung tử nữ) sẽ can thiệp hoặc quản thúc hành vi tiêu xài tiền của “ta”, nhờ vậy mà còn tiền. Lúc luận đoán, thùy tượng chỉ ra mối quan hệ nhân quả trực tiếp hay không trực tiếp, các bạn phải dùng tâm để biết. Đây là những thùy tượng tụ lại thành “cách", cũng không luận cát hung, nhưng có tượng ắt phải có vật của nó, lúc hành hạn đến các cung phi hóa tượng này sẽ ứng nghiệm.

Trên đều là bàn về thùy tượng cách cục cơ bản của nguyên cục mà thôi, đương nhiên nếu có tứ hóa [năm sinh], hoặc có tự hóa, ý tượng của nó phải luận khác, còn thêm vào tượng đan xen của hành hạn (hóa tượng của đại vận và lưu niên trùng điệp), e rằng rất là phức tạp. Tóm lại, mối quan hệ thể dụng, cơ sở quan trọng của nó là "lấy tượng để luận việc”, “thế” mà nhận không rõ, thì cơ hội luận đoán sai càng tăng lên.

Nguyên tắc phối hợp cung, sao và hóa tượng:

Có một người hỏi vấn đề có liên quan đến “Thiên Quan, Thiên Phúc"; nội dung xin tóm lược như sau: “Nam mệnh, Nhật Nguyệt cùng thủ mệnh ở cung Sửu, Thái Âm Hóa Quyền, có Hỏa Tinh, Linh Tinh ở tam phương của cung mệnh, chiếu lí người này phải lao tâm lao lực, sự nghiệp gặp nhiều sóng gió, nhưng thấy người này làm ăn nhàn nhã tự tại, chỉ ở nhà tiếp điện thoại mà công việc làm ăn vẫn đến, khiến đồng nghiệp rất là khâm phục. Chính bản thân mệnh tạo cũng lấy làm lạ, vì phần lớn là khách hàng tự tìm đến mình.

Người ta nói: "Người này cung phúc đức có các sao Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiên Thọ, là 'Thiên Quan tứ phúc', phúc phận không phải nhỏ."

Nam mệnh sinh năm Mậu Thân (1957), mệnh bàn giản lược như sau: (Xem hình 1)

Hình 1 Nam mệnh sinh năm Mậu Thân (1957)

Muốn nghiên cứu mệnh lí cần phải biết hai quan niệm tối cơ bản sau đây:

(1) Mệnh tốt cần phải có vận tốt, vận tốt cần phải có tính cách tốt. Tính cách điều khiển hành vi của một người, làm ảnh hưởng đến vận hạn. Vì vậy mệnh tốt chưa chắc đã có sở đắc, điểm quan trọng là ở hành hạn hậu thiên, không có vận tốt thì làm sao phúc phận đến, dù 10 sao như Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiên Thọ cũng chỉ uổng phí mà thôi.

(2) Kế đến, vận dụng Khâm Thiên môn để luận đoán bất cứ vấn đề gì, về nguyên tắc, cần phải căn cứ ba yếu tố “cung, sao, tứ hóa” hợp thành nhất thể để giải mệnh bàn. Đây là khái niệm tối cơ bản.

Dưới đây xin dùng mệnh bàn kể trên để thuyết minh nguyên tắc vận dụng “cung, sao, tứ hóa" trong việc luận đoán:

(1) Trước tiên luận về mệnh cách:

Cung mệnh có Thái Dương, Thái Âm Hóa Quyền [năm sinh] đồng độ với Thiên Khôi, Linh Tinh; can cung là Ất khiến Thái Âm tự Hóa Kị; đối cung (thiên di) có Văn Xương, Văn Khúc và Thiên Việt. Vì Thái Dương, Thái Âm là sao động, lại ở cung Sửu là Mộ địa, là ý tượng: cuộc đời khó được thanh nhàn, thường vì cuộc sống hoặc lí tưởng mà phải vất vả. Còn bản cung và đối cung có Thiên Khôi, Thiên Việt là tọa có quý nhân, hướng có quý nhân, có thể được quý nhân tương trợ, nhất là được phái nữ trợ giúp; hơn nữa, Văn Xương,Văn Khúc là sao tài hoa, là ý tượng: dễ được người khác trọng dụng. Ngoài ra, cung mệnh có Thái Âm Hóa Quyền [năm sinh] còn tự Hóa Kị, là ý tượng: người này cá tính nóng vội, ý thức chủ quan khá nặng, nhưng may mà ở cung tật ách của nguyên cục có Hữu Bật Hóa Khoa [năm sinh] điều chỉnh, vì vậy không đến nỗi bất chấp lí lẽ; nhưng có Linh Tinh chủ về tính cứng cỏi, cố chấp, nên cần chú ý có lúc hành động hoặc cách suy nghĩ dễ dẫn đến thị phi mà tổn thương.

Cung quan lộc ở Tị, có Thiên Lương, Hỏa Tinh, Lộc Tồn; vì sinh năm Mậu nên có Kình Dương, Đà La giáp cung. Thiên Lương là sao “người già” nên xử sự không được chủ động, nhưng nhờ có Hỏa Tinh khích lệ, nên có biểu hiện khá tích cực; huống hồ Lộc Tồn chủ về tài lộc, nhập cung sự nghiệp là dục vọng kiếm tiền khá mạnh, nhưng vì có Kình Dương, Đà La giáp cung nên sẽ không xung động thái quá.

Cung tài bạch ở Dậu là vô chính diệu, cung vô chính diệu chủ về có thiếu sót gì đó, nhưng không chủ về người này không có tiền. Đối cung cua cung tài bạch là cung phúc đức có Thiên Cơ Hóa Kị [năm sinh] còn tự Hóa Lộc và Cự Môn; cung phúc đức có Thiên Cơ Hóa Kị chủ về là người thành thực, cũng chủ về che chở khá nhiều người, bản thân không có phúc hưởng thụ. Ngoài ra, cung tài bạch là can Tân, khiến Cự Môn Hóa Lộc ở cung phúc đức, còn gặp tự Hóa Lộc, là “Lộc xuất”, nhưng Hóa Kị xung cung tài bạch, có thể luận không giữ được tiền, còn cam tâm tình nguyện mang ra làm việc thiện giúp người khác, còn bản thân thì không dùng để hưởng phước.

Phân tích ở trên là lấy cách cục của cung, sao, tượng làm chính thể để luận đoán, có thể cho thấy ý nghĩa của Thiên Quan,Thiên Phúc thực sự là gì.

(2) Kế đến, luận phối hợp với hành hạn:

Do mệnh tạo sinh năm Mậu Thân (1957), là dương nam, vận đi thuận, hiện đến đại vận 34~43 tuổi ở cung điền trạch của nguyên cục. Lấy góc độ “tài quan” để xem xét:

- Quan sát cung mệnh của đại vận phi hóa:

Cung mệnh của đại vận là can Bính, Thiên Đồng phi Hóa Lộc nhập cung tật ách của đại vận (cung phu thê của nguyên cục), Liêm Trinh phi Hóa Kị nhập cung quan lộc của đại vận (cung tật ách của.nguyên cục), là ý tượng: trong đại vận này bản thân sẽ vì kiếm tiền mà bận rộn.

- Quan sát cung quan lộc của đại vận phi hóa:

Cung quan lộc của dại vân là can Canh, khiến Hóa Lộc nhập Thái Dương ở cung tử nữ của đại vận (tức cung mệnh của nguyên cục), khiến Thiên Đồng Hóa Kị ở cung tật ách của đại vận (tức cung phu thê của nguyên cục), là ý tượng: đầu tư, giao tế, hợp tác, quan hệ công cộng (PR), khiến mệnh tạo bận rộn làm ăn, phát triển sự nghiệp.

- Quan sát cung tài bạch của đại vận phi hóa:

Cung tài bạch của đại vận là can Giáp, khiến Liêm Trinh Hóa Lộc ở cung quan lộc của đại vận (tức cung tật ách của nguyên cục), khiến Thái Dương Hóa Kị ở cung tử nữ của đại vận (tức cung mệnh của nguyên cục), cung quan lộc của đại vận (tức cung tật ách của nguyên cục) có Hóa Lộc nhập, còn đối cung là cung phu thê của đại vận (tức cung phụ mẫu của nguyên cục) có Hóa Lộc [năm sinh] tọa thủ, hình thành cục “Lộc đối nhau”, là ý tượng: tăng thêm cát lợi. Cung xung là cung thiên di, xem hóa tượng thì biết, người này không những kiếm được tiền, mà còn nhờ làm việc có hiệu quả, có uy tín, cho nên công việc làm ăn không cần bản thân phải phí sức đi ra ngoài để liên hệ, mà tự nhiên có người tìm đến để giao dịch.

Dựa vào cung, sao, tượng của hành hạn để phân tích, cũng có thể xác định được người này đang vào vận cát, không liên quan nhiều đến Thiên Quan và Thiên Phúc.

Trường hợp phi tinh Quyền Lộc - Kị - Quyền Lộc:

Can cung mệnh phi Hóa Quyền và Hóa Lộc nhập cung tử nữ, can cung tử nữ chuyển phi Hóa Kị nhập cung thiên di, mà cung thiên di lại có Hóa Quyền và Hóa Lộc [năm sinh] tọa thủ. Tượng này tốt hay xấu?

Tình trạng cung mệnh phi Hóa Lộc và phi Hóa Quyền nhập cung tử nữ, chuyển phi Hóa Kị nhập cung thiên di lại gặp Hóa Lộc và Hóa Quyền [năm sinh], ứng mệnh bàn như sau: (Xem hình 2)

Hình 2 - Người sinh năm Giáp

Nếu tinh tế một chút sẽ không khó để phát hiện, mệnh bàn này là người sinh năm Giáp, cung mệnh phi hóa nhập cung tử nữ, lại có Thiên Đồng tự Hóa Lộc, chuyển phi Hóa Kị nhập cung thiên di, ngoại trừ Liêm Trinh Hóa Lộc [năm sinh] và Phá Quân Hóa Quyền [năm sinh], Phá Quân còn tự Hóa Lộc; do hậu thiên phi hóa nhập vào tự hóa làm biến đổi số, đương nhiên sinh ra ý tượng khác hẳn. Theo Khâm Thiên môn, 12 cung của mệnh bàn đều liên can tới các nhân tố hóa tượng tiên thiên và hậu thiên khác nhau. Về cơ bản, tứ hóa tiên thiên là điều kiện vốn có, thông thường dùng để luận về “cách” là chính; tứ hóa hậu thiên thì dựa vào lập cực để luận các sự tình khác nhau, có thể luận về “cách” hay “hành hạn”, do đó lúc lập cực để lấy tượng cần phải nhận rõ góc độ là luận về “cách” hay luận về “hành hạn”. Luận về “cách” thì không nói cát hung; luận về “hành hạn” thì có cát hung họa phúc. Có điều, bất kể là tứ hóa loại gì, chỉ cần có mối quan hệ phức tạp của “bản dịch”, “giao dịch”,“biến dịch” thì sẽ sinh ra sự biển hóa làm thay đổi tính chất.

(1) Trước tiên chúng ta tìm hiểu “cách" tiên thiên của mệnh bàn này:

Lai nhân cung của mệnh tạo ở cung tật ách, luận về người, là xem như cung mệnh của mệnh tạo (vì “nhất lục cộng tông”), thuộc “cách tự lập", không được hưởng phước ấm của cha mẹ hay sự trợ giúp của bậc trưởng bối. Luận về sự tình, là nói về sức khỏe (bệnh tật hoặc tai ách), dịch mã, thích hợp đi làm hưởng lương, hoặc công tác giáo dục (thầy giáo) và công việc có tính chất nghiên cứu (học giả). Luận về sự tình, là giấy chứng nhận, thế chấp, tín dụng, văn thư, hợp đồng, hoặc tiền góp.

Tứ hóa [năm sinh] đều ở “tha cung” là thuộc “cách cầu phú”; Liêm Trinh Hóa Lộc [năm sinh] và Phá Quân Hóa Quyền [năm sinh] ở cung thiên di, biểu thị mệnh tạo ở bên ngoài rất có duyên với người chung quanh, hoặc có duyên với người khác giới, dễ được quý nhân tương trợ, có tài, có năng lực, xuất ngoại có thể phát triển và dễ thăng tiến. Do lai nhân cung ở cung tật ách của nguyên cục, là thuộc về “cách tự lập”, mà tứ hóa [năm sinh] đều ở “tha cung”; nói cách khác, Lộc, Quyền ở bên ngoài ắt cần phải dựa vào bản thân nỗ lực, vất vả bôn ba mới sở đắc. Nhưng cung thiên di là can Quý lại có Phá Quân tự Hóa Lộc, cũng hiển thị ý tượng “không biết trân quý”.

Vũ Khúc Hóa Khoa [năm sinh] tọa cung phu thê, người phối ngẫu của mệnh tạo giỏi quản lí tiền bạc, tài giỏi.

Thái Dương Hóa Kị [năm sinh] nhập cung huynh đệ, chủ về bất lợi đối với anh em, mất mát anh cả, hoặc mất mát anh em phái nam và bất lợi đối với bạn bè phái nam; con cái tư tưởng không cởi mỏ; giữa cha và anh em có sự bất hòa, hoặc cha không có tinh thần trách nhiệm đối với gia đình, hoặc bị anh em gây lụy; vận cơ thể của mệnh tạo cũng không được tốt.

(2) Kế đến chúng ta phân tích ý tượng phi tinh “Quyền Lộc - Kị - Quyền Lộc":

Có một khái niệm cơ bản quan trọng của “phi tinh tứ hóa”, đó chính là cung vị nào phát xạ, thì do cung vị đó gánh trách nhiệm.

Trong trường hợp này, cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lộc và phi Hóa Quyền nhập cung tử nữ, chuyển phi Hóa Kị nhập Liêm Trinh ở cung thiên di và xung cung mệnh; cung phát xạ là cung mệnh của nguyên cục, tức là nói, tình hình cát hung họa phúc phát xuất từ bản thân mệnh tạo.

Cung tử nũ phiếm chỉ con cái, đào hoa, công sở, giao dịch, hợp tác, đầu tư và thuộc hạ của mệnh tạo. Cung mệnh của nguyên cục phi Hóa Lôc và phi Hóa Quyền nhập cung tử nữ, ý tượng như sau:

a/ Luận về người:

- Đối với con cái rất tốt, có duyên phận với con cái; cung tủ nữ là can Bính, Thiên Đồng lại tự Hóa Lộc, "Lộc xuất” chủ về “hao tổn, mất mát”, có thể là tượng dễ bị trụy thai hoặc khó có con trai; ngoài ra, “Quyền nhập” cũng sẽ đòi hỏi ở con cái, hay quản giáo con cái.

- Mệnh tạo có tính dục khá mạnh, nặng duyên đào hoa.

b/ Luận về sự tình:

Hợp tác làm chủ cổ phần, nhưng do bạn bè nắm quyền.

Tình hình “chuyển phi Hóa Kị nhập Liêm Trinh ở cung thiên di và xung cung mệnh” có kết quả như sau: Luận về người, dễ vì vận đào hoa mà khiến cho quan hệ vợ chồng không được tốt đẹp. Luận về sự tình, không nên đầu tư hoặc hợp tác, nếu không, dễ tổn tài, hao tài và chuốc “quan phi”.

Như đã thuật ở trên, trước tiên phải tìm hiểu "cách" tiên thiên của mệnh tạo, rồi từ “cách” tiên thiên chúng ta có thể biết được điều kiện vốn có, mệnh tạo thuộc về “cách tự lập”, đã minh xác một điều, mệnh tạo muốn cầu danh lợi cần phải dựa vào bản thân nỗ lực mới có thành tựu. Do đó, ý tượng và kết quả phát sinh của trường hợp cung mệnh của nguyên cục phi hóa “Quyền Lộc - Kị - Quyền Lộc” là không khó hiểu!

Theo: Trung Châu Tử Vi Đẩu Số

Phản hồi từ học viên

5

(Dựa trên đánh giá ngày hôm nay)


Đã sao chép!!!
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ
Hotline: 083-790-1987
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ Chat FB với chúng tôi
Khóa Học Tử Vi Chân Cơ